Đại Giới đàn MInh Nguyệt - một danh Tăng Việt Nam đầu TK XX
Từ xưa đến nay, không phải ngẫu nhiên, Đại giới đàn nào, ban tổ chức cũng treo biểu ngữ “TUYỂN PHẬT TRƯỜNG”. Điều đó khẳng định mục đích và ý nghĩa Phật sự này là nhằm tuyển người học Phật và làm Phật , chứ không làm gì khác.

Nhân sự kiện Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
trang trọng tổ chức Đại Giới đàn Minh Nguyệt - một danh Tăng Việt Nam của thế kỷ
XX tổ chức từ ngày 09 – 12/ 11/ 2023 (nhằm ngày 26 – 29/ 9 năm Quý Mão). Trang
nhà Thiên Thai Thiên Thiền Giáo tông trân trọng ôn lại tiểu sử về Hòa thượng
Thích Minh Nguyệt – một trong những vị Đại đệ tử của Tổ sư Huệ Đăng (Tổ sư sáng lập
Thiên Thai Thiền Giáo tông – Liên Hữu hội).

Lược sử Cố Hòa thượng Thích Minh Nguyệt (1907 – 1985)
Hòa thượng Thích Minh Nguyệt, thế danh là Lý Duy Kim, sinh ngày 19.12.1907, tại xã Tân An, tỉnh Thủ Dầu Một (nay là Sông Bé). Năm Kỷ Mùi (1919),Ngài đến chùa Thiên Thai (tỉnh Bà Rịa) xin xuất gia, tu học với Tổ Huệ Đăng, là vị sơ tổ của Thiên Thai thiền giáo tông.
Trong thời gian tu học tại đây, ngoài những thời khóa, Ngài được gần gũi, hầu cận bên Tổ Huệ Đăng. Do đó Ngài đã có được những cảm nghĩ ban đầu về tinh thần dân tộc khi được dự nghe những buổi tọa đàm giữa Tổ Huệ Đăng và cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ý thức cách mạng nảy nở trong lòng và Ngài luôn luôn trăn trở về điều ấy.
Năm Mậu Dần (1938), ý chí nâng cao tri kiến bằng cách đem đạo Phật vào cuộc đời và tinh thần yêu nước thôi thúc, Ngài xin phép Bổn sư để vân du tham học khắp nơi, vừa mở mang trí tuệ, vừa thâm nhập thực tại hoàn cảnh đất nước ở nhiều khía cạnh.
Năm Ất Dậu (1945), Cách Mạng Tháng Tám thành công, cũng là lúc bề dày hoạt động của Ngài đã đủ chứng minh cho lòng yêu nước nồng nàn ấy. Ngài hoạt động khắp mọi nơi với bí danh Tam Không. Liên tục sau đó Ngài được mọi người tín nhiệm bầu vào các chức vụ như Hội trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc Nam bộ, Hội trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc tỉnh Mỹ Tho, Hội trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc khu Sài gòn - Gia Định, Ủy viên Mặt trận tỉnh Mỹ Tho, Ủy viên khu Sài Gòn - Gia Định và kỳ bộ Việt Minh Nam bộ.
Từ năm Giáp Ngọ (1954) đến năm Canh Tý (1960) Ngài vừa là một vị tiêu biểu cho lực lượng Tăng sĩ hoạt động truyền bá giáo lý Phật giáo, vừa là một chiến sĩ cách mạng yêu nước, vì thế chính quyền thời bấy giờ theo dõi Ngài rất gắt gao. Ngày 6/4/ 1960, một cơ sở bị lộ. Tất cả cán bộ cốt cán bị bắt, trong đó có Ngài. Ngài bị đày ra Côn Đảo với mức án 20 năm tù khổ sai.
Năm Giáp Dần (1974), sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Ngài được trao trả về vùng giải phóng Lộc Ninh. Khi được tự do, Ngài liên lạc với các vị giáo phẩm lãnh đạo khác trong các tỉnh phía Nam, để chuẩn bị cho lực lượng Phật giáo tham gia nổi dậy cùng các mũi tiến công của Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Năm Ất Mão (1975), miền Nam hoàn toàn giải phóng, Ngài đảm đương các chức vụ Phó chủ tịch Ủy Ban Mặt Trận Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên đoàn chủ tịch Ủy ban Trung Ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Ngoài ra Ngài còn làm Chủ tịch Ủy ban Liên lạc Phật giáo Yêu nước Thành phố Hồ Chí Minh, với nhiệm vụ liên lạc Tăng Ni Phật tử đoàn kết, xây dựng tổ quốc trong giai đoạn mới.
Đầu năm 1976, tờ báo Giác Ngộ, một tờ báo Phật giáo đầu tiên tại các tỉnh phía Nam sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất ra đời. Ngài được bầu làm Chủ nhiệm Báo Giác Ngộ.
Ban trù bị Đại hội Thống Nhất Phật Giáo Việt Nam được thành lập, Ngài là Phó Ban vận động kiêm Trưởng ban Thông tin. Năm Tân Dậu (1981), tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc tổ chức ở Hà Nội, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ra đời với tầm vóc đại thể xuyên suốt, có hiến chương chặt chẽ. Ngài được suy cử ngôi vị Phó Pháp Chủ thường trực Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương.
Hòa thượng viên tịch ngày 28 tháng chạp năm Giáp Tý (18/1/1985) tại chùa Long Hoa (quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh), thọ 77 tuổi đời, và 57 năm hành đạo.
