LỄ HÚY KỴ LẦN THỨ 54 CỔ ĐẠI LÃO HT. THÍCH MINH ĐỨC & HIỆP KỴ NHỊ VỊ ÂN SƯ
(TP.HCM - CHÙA HẠNH NGUYỆN) Ngày 10/6/2025 (15.5. Ất Tỵ), môn đồ đệ tử chùa Hạnh Nguyện (quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh) đã trang trọng tổ chức lễ húy kỵ lần thứ 54 của Cố đại lão HT. Thích Minh Đức, nguyên Viện trưởng viện Hoằng đạo Giáo hội Phật giáo Cổ truyền VN, đồng thời hiệp kỵ nhị vị Hòa thượng Ân sư Cố HT. Thích Minh Nguyệt, Cố HT. Thích Thiện Hào và chư tôn trong Tông phong pháp phái.

Buổi lễ do HT. Thích Thiện Xuân, Thành viên HĐCM GHPGVN, viện chủ chùa Hạnh Nguyện, chủ trì. Chư tôn giáo phẩm HĐCM, HĐTS TW GHPGVN, chư tôn đức Tăng, Ni Thường trực Ban Trị sự GHPGVN TP.HCM và Q. Tân Phú, chư tôn đức Tăng Ni Ban Thừa kế Thiên Thai Thiền Giáo tông cùng chư Tăng Ni, Phật tử trong Môn hạ Thiên Thai Thiền Giáo tông quang lâm tham dự và hộ niệm.



Tại buổi lễ tưởng húy kỵ Tôn sư, Đại diện Môn đồ Pháp quyến – HT. Thích Chơn Không, trụ trì chùa Thiên Tôn (Q.5, TP.HCM) đã ôn lại hạnh nguyện và hành trạng của Cố Đại lão HT. Thích Minh Đức.
Theo đó: Hòa thượng Thích Minh Đức, người thuộc làng Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Định Tường (nay là Tiền Giang). Năm Quý Dậu 1933, Ngài xuất gia tại chùa Thiên Thai (núi Dinh - Bà Rịa) thọ giáo với Tổ Huệ Đăng, được Tổ ban đạo là hiệu Thiện Mẫn. Cuối năm ấy Ngài được Tổ cho thọ tam đàn Cụ Túc giới tại giới đàn chùa Phước Hậu (thị xã Long Xuyên).
Năm 1938, chùa Thanh Lương (Biên Hòa) khai đàn thí giới, Ngài được suy cử Yết Ma A Xà Lê. Từ giới đàn này, Tổ Huệ Đăng nhận thấy sự tu hành của Ngài càng tăng trưởng, có thể ích lợi cho đạo mạch mai sau. Do đó Tổ đặt cho Ngài pháp hiệu Minh Đức.
Năm Kỷ Mẹo (1939), Ngài được bổ xứ trụ trì chùa Hoa Nghiêm (Cần Giuộc), nơi đây Ngài đã cất một thảo am để hằng năm nhập thất an cư. Năm Quý Mùi (1943), Hương chức xã Tân Thới Nhứt ngưỡng mộ danh đức nên thỉnh Ngài về trụ trì chùa Giác Hoàng (Bà Điểm). Tại đây ngoài việc hằng năm tiếp tục kiết thất an cư, Ngài còn tiếp Tăng độ chúng, xây dựng một giảng đường để có nơi cho Tăng chúng tu học. Do hoạt động tích cực của Ngài, chùa Giác Hoàng trở thành cơ sở quan trọng của phong trào chấn hưng Phật giáo; các Ngài Pháp Linh, Thiện Chiếu, Hoằng Không, Long Quang thường xuyên hội họp tại đây. Bên cạnh việc hoằng đạo Ngài còn biến nơi đây thành nơi gặp gỡ của không ít cán bộ Cách Mạng, trong đó có cụ Phạm Văn Đồng. Do đó khi Cách mạng tháng 8-1945 bùng nổ chùa Giác Hoàng là nơi hậu cứ quan trọng.
Năm Đinh Hợi (1947), Ngài được Hòa thượng Thích Minh Nguyệt - Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Nam bộ, cử xuống vùng Chợ Lớn dựng thảo am để vận động quần chúng ủng hộ kháng chiến. Chọn Bến Hàm Tử là nơi gần chợ và nhiều dân cư, Ngài dựng một ngôi chùa nhỏ đặt tên Tăng Phường, hiệu Giác Hoàng để thực hiện nhiệm vụ được giao đồng thời khuyến hóa quần chúng tu tập.
Năm Tân Mẹo (1951), Ngài được suy cử Đường đầu Hòa thượng nhân mùa kiết hạ tổ chức tại chùa Long An đường Nguyễn Văn Cừ quận 10, thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Năm Nhâm Thìn (1952), chùa Giác Hoàng (Tăng Phường) ở Bến Hàm Tử chịu chung số phận bị hỏa tai với bà con chung quanh. Ngài quyết tâm xây lại ngôi chùa khác lớn hơn, không xa nền chùa cũ bao nhiêu. Đó là chùa Thiên Tôn (ở số 117/9 đường An Bình phường 13,quận 5 ngày nay). Công trình mãi đến năm Giáp Ngọ (1954) mới hoàn thành. Phòng thuốc từ thiện được Ngài mở ra ngay tại chùa sau khi xây cất xong.
Mùa an cư năm Bính Thân (1956), Ngài làm Thiền chủ Giáo hội Lục Hòa Tăng, trực tiếp đưa Giáo hội vào các cao trào đấu tranh của nhân dân. Từ đây cho đến năm Kỷ Hợi (1959), nhiều cơ sở cách mạng nội thành bị lộ, các hoạt động đấu tranh của các Hòa thượng cũng bị ảnh hưởng. Những biến động này xảy ra và liên quan đến chùa Thiên Tôn, nơi tiếp xúc, hội họp của các cán bộ Trung ương và Thành ủy Sài Gòn.
Năm Canh Tý (1960) sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam ra đời, Ngài trở về chùa Thiên Tôn tập hợp các vị còn lại, khôi phục lại các hoạt động Giáo Hội từ nhiều cấp. Năm Kỷ Dậu (1969), hai Giáo Hội Lục Hòa Tăng và Lục Hòa Phật Tử hợp thành Giáo Hội Phật Giáo Cổ Truyền Việt Nam, để huy động lực lượng đảm nhiệm vai trò mới. Ngài được cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Chỉ đạo Trung ương kiêm Viện trưởng Viện Hoằng Đạo. Ngài thâu thần thị tịch ngày 8 tháng 7 năm 1971 (nhằm 16 tháng 5 năm Tân Hợi), hưởng thọ 70 tuổi, được 48 hạ lạp.
Sau lễ tưởng niệm húy nhật Tổ sư, Môn đồ pháp quyến và bổn tự chùa Hạnh Nguyện trang nghiêm cúng dường trai tăng đến chư tôn thiền đức Tăng Ni.. Trước đó, ngày 14/ 5 Ất Tỵ Bổn tự đã tổ chức trai đàn chẩn tế, phổ thí âm linh, cầu nguyện kỳ siêu liệt vị tiên linh, hương linh ký linh ký tự và đồng bào tử nạn, ngõ hầu ân triêm công đức hồi hướng liệt vị Tôn sư Giác linh.
Đại đức Thích Nguyên Thanh, trụ trì chùa Hạnh Nguyện và chư Tăng bổn tự tác pháp cúng dường trai tăng trong lễ húy kỵ Tôn sư
Tin, ảnh Ban TTTT - Thiên Thai Thiền Giáo tông