Triết học Ấn Độ chia ngã thành các tầng mức khác nhau, và chính Đức Phật đã phủ định các tầng tự ngã này trong kinh Kim cang.
-Pudgala, một tự ngã như là chủ thể tâm lý, trong nhiều trường hợp, Hán không dịch mà phiên âm: Bổ-đặc-già-la, vì ý nghĩa từ này trong Hán ngữ không có từ tương đương. Pudgala có nghĩa là nhân xưng (person), trong mọi giao tiếp, không thể thiếu vắng Pudgala, nếu thiếu sẽ không hiểu ai đang nói và ai đang nghe. Tức là, tự ngã nhân xưng ông A, bà B; con người, con vật; nhà vua hay ăn mày….
-Jīva, nguyên lý sự sống (living), cái duy trì sự sống mà các quan niệm tôn giáo quan niệm như là linh hồn, vì muốn tồn tại thì phải có yếu tố sự sống, yếu tố sự sống này mất thì chúng ta chết, đây là quan niệm rất phổ thông, tức cho rằng mỗi người đều có Jīva: nó ăn, nó thở… Hán ngữ cũng không có từ tương đương, nên ngài La-thập dịch là thọ giả (tức tuổi thọ), ngài Huyền Tráng dịch là mạng (tức sinh mạng).
Theo quan niệm của Vệ-đà thì Jīvalà cái luân hồi sinh tử, Pudgalalà tự ngã tâm lý, khi chết thì Pudgala sẽ mất, chỉ còn Jīvatồn tại để đi đến đời sống khác.Cái vận hành trong đời này để có sự vui buồn đó là Pudgala, khi thân này rã, cái duy trì đến đời sau đó là Jīva.
-Ātman, một tự ngã siêu nghiệm thường hằng bất biến .Jīvadù có biến thành cái này cái kia, thường hằng trong luân hồi, nhưng khi hết luân hồi thì Jīva cũng không còn nữa. Tuy nhiên, Ātmandù có luân hồi hay không thì vẫn thường hằng bất biến. Đau khổ vì lặn hụp trong đời này đời sau, mong muốn thoát khỏi đau khổ trở về với một tự ngã siêu nhiên, một cái gì đó bao la như hư không, đó là Ātman (self).
-Sattva,hữu tình hay là chúng sinh (being). Hữu tình dịch đúng là hữu tính, tức là cái tồn tại có cảm giác, có thương có ghét. Chữ Hữu có nghĩa là tồn tại, dịch từ chữ Sat,chứ không phải nghĩa là Có. Quan niệm rằng, trong luân hồi sinh tử, có nhiều cái Ta như vậy cùng tồn tại, từ đó hình thành khái niệm Sattva, chúng sinh tồn tại ở đó.
Bốn khái niệm tự ngã như vậy, kinh Kim cang gọi là "ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả”, chỉ chung cho một con người, chứ không phải chỉ cho nhiều người như đa số người đọc Kim cang vẫn hiểu: "Ta, người, chúng sinh, mạng sống”. Tức là Đức Phật bác bỏ quan niệm về ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, hay còn nói là "Vô ngã tưởng, vô nhân tưởng, vô chúng sinh tưởng, vô thọ giả tưởng”.
Ở đây, tưởng (saṃjña) là quan niệm, khái niệm, ngài La-thập dịch là tướng, từ đó rất nhiều người hiểu nhầm về bốn tầng tự ngã này. Đức Phật bác bỏ những cái tưởng này nhằm loại bỏ sự huân tập của tập khí chấp ngã (Ātmadṛṣtīvāsanā), tức là sự chấp thủ về ngã và ngã sở một cách bất thực. Như vậy, Như Lai có kiêu ngạo hay không, chúng ta cứ đến với Ngài, đến với giáo lý của Ngài để thực tập và chiêm nghiệm.
Có hay không chuyện vừa Đản sinh đã có thể đi bảy bước và tuyên bố "Ta là đấng tối thượng trong tam giới”, điều đó không quan trọng, bởi vì Như Lai có thật sự tối thượng, là Thầy của trời người hay không, mỗi người tự cảm nhận lấy. Bởi ngay cả bậc đại trí tuệ như Tôn giả Xá-lợi-phất cũng tán thán Đức Phật rằng: "Trên trời dưới trời không ai bằng Phật. Mười phương thế giới cũng như vậy. Tất cả những gì trong thế gian con đều thấy biết hết. Nhưng không có ai được như Đức Phật”6.
Sự thật, Đức Phật chỉ xuất hiện ở đời sau khi Giác ngộ. Sự khẳng định địa vị tối tôn giữa trời người của Đức Phật, bậc Giác ngộ là một sự thật như thị với lời chân thật cũng như thị. Tuyên bố của Thái tử Tất-đạt-đa lúc Đản sinh có tính chất của một dự ngôn, điều ấy được xác chứng sau khi Giác ngộ, thành Phật.