Tổ Đình Thiên Thai Thiền Giáo Tông
Thư viện | (19:29 ngày 15/05/2022) | Xem ( 328)

Bát Nhã Âm - Tạp chí số 01

Bát Nhã Âm là tạp chí xưa kia của THIÊN THAI THIỀN GIÁO TÔNG đã được xuất bản mội tháng 01 lần Tòa soạn được đặt tại CHÙA THIÊN BỬU ,LÀNG HẮT LĂNG, BÀ RỊA Chủ nhiệm: ĐỖ PHƯỚC TÂM tự MINH CHÁNH Tập số 01 được phát hành vào ngày: 07 rue Lucien Mosbaro 07 1936

THIÊN THAI THIỀN GIÁO TÔNG LIÊN HỮU HỘI

HUỆ ĐĂNG HÒA THƯỢNG TÁC ĐẠI CHỨNG MINH

DIỄN ĐÀN

Nam mô A Di Đà Phật.

Bố cáo nội hội Chư sơn Thiền đức, Tịnh viên quan Quới chức, phổ cập thanh tính sĩ nữ đáng kính, khuyên quí vị lặng lòng lóng nghe lời văn diễn đàn đây:

Nguyên trong Hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu Hội có quan Tri phủ hồi hưu là Đỗ Phước Tâm, pháp hiệu là Minh Chánh cư sĩ, hiện làm chức Thủ bổn trong Đại hội, ngài có yêu cầu Chánh phủ xin ra một tờ tập chí an danh là Bác Nhã Âm. Ơn trên Chánh phủ, Quan Toàn quyền Tổng thống Đông Pháp, ngài sẵn lòng vì Đạo phê chuẩn rất mau, cho phép Bác Nhã Âm nầy tuyên bố ra từ ngày mùng 5 tháng chạp năm Ất Hợi (30 Decembre 1935). Quan Thủ bổn, ngài lại thành tâm kính hiến tờ tập chí Bác Nhã Âm ấy lại cho Hội. Trong Hội đều cám ơn hỉ nạp, lấy đó đặng làm cơ quan phổ thông đường đạo đức trong Đại Hội là một điều tiện nghi rt lắm.

Nay đến ngày 24 tháng giêng năm Bính Tí (14 Fevrier 1936). Đại hội tại chùa Thiên Thai tuyển cử bốn phái chức sự tân, đặng đổi bốn phái chức sự cựu, và kiểm soát sổ sách tài chánh các việc năm rồi, thương nghị các việc cử hành năm mới, mỗi sự đều đặng thanh bạch tất cả.

Trong các việc ấy có đăng vào tập chí, kế sau còn hiện thời diễn đàn đây là chỉ yếu giảng minh nghĩa lý ba chữBác Nhã Âm đặng tuyên bố ra cho quí vị hội viên trong Nam kỳ lục châu đều đặng hay biết.

Vả hai chữ Bác Nhã ấy là tiếng Phạm ngữ bên Trung Thiên Ấn Độ, Phương ta đây gọi rằng: Trí Huệ.

Chữ Trí ấy nghĩa là thẩm lý biết tà chánh, quyết đoán mỗi sự mới đặng minh bạch.

Chữ Huệ ấy nghĩa là tạo tác mỗi sự chi, tâm đều phân biệt không hào tạp.

Chữ Âm ấy nghĩa là có lên tiếng thời người mới đặng nghe, người nghe đặng mới biết đường tà chánh đó.

Vậy nên chúng ta phải biết hai chữ Trí Huệnầy là cội gốc căn cơ của nhơn sanh đó. Do Trí Huệ mà phân định ra vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ, trong nhơn đạo mới có tôn ty vậy. Cũng do Trí Huệ mà tạo lập pháp luật, hành chánh, cang thường luân lý, trong nhơn sanh mới có kỷ luật vậy. Cho hay có Trí Huệ mới có kiến quốc trị dân, có Trí Huệ mới thành gia lập nghiệp. Nhẫn đến muôn sự muôn vật chỉ tất cả đều do Trí Huệ tạo tác ra đó. Tốt thay, thạnh thay, hai chữ Trí Huệ nầy bao trùm vũ trụ bủa khắp càn khôn. Vi vọi ôi! Lớn thay không cùng không tột.

Ấy quí vị suy xét lại coi Trí Huệlà vật chi mà linh tri diệu dụng rộng lớn đến thế? Ấy là cái "Bổn Tâm” của quí vị đó. Trí Huệ tức là Tâm chưng biệt danh, Tâm tức là Trí Huệ, màTrí Huệtức là tâm lại cũng gọi rằng "Bổn tánh” đó. Vả cũng một Tâm ấy mà sao lại gọi rằng Tâm Trí huệ, sao lại gọi là rằng Tâm Vô minh, đều có khác nhau? Tức là tâm ấy mà người tự tỉnh đặng hoặc có chỗ giác ngộ đặng, xúc đối việc chi đều phân minh biện bạch không sai lầm, ấy gọi rằng "Tâm Trí huệ”. Suy mà rộng đó hằng đặng sáng suốt luôn luôn, ấy gọi rằng "Tánh Trí Huệ”. Còn xúc đối việc chi đều che ngăn mờ tối, ấy gọi rằng "Tâm Vô Minh”; còn cố chấp theo vật chất, xúc đối việc chi đềuchướng ngại mãi mãi, ấy gọi rằng "Tánh Ám Độn”.

Ấy quí vị suy xét ra cho minh bạch mà coi, cớ sao một bổn tâm mà có lợi độn chẳng đồng, cũng một bổn thể mà có thánh phàm đều khác. Ấy là do nơi bổn thọ chẳng đồng, hay là tại nơi mình tự tác mà chia ra hai lẽ. Cớ ấy bao hàm sự lý rộng lớn không cùng, tóm tắt nguyên nhơn chỉ về một mối.

Vậy nên lời Cổ Đức có nói rằng: "Chơn nguyên trạm lịch nải tội tánh chi bổn không, thân trục vọng ba, cảnh nhựt trầm luân nhi bất giác”, nghĩa là: nguồn chơn vắng lặng nào có tội tánh chi đâu, do nơi chúng sanh ruổi theo lằn sóng vọng, trọn ngày chìm đắm mà chẳng biết. Lại bên Nho thơ cũng nói rằng: "Cái tự thiên gián sanh dân, tắc kỳ mạc bất dữ, chi dỉ nhơn, nghĩa, lễ, trí chi tánh hỷ, nhiên kỳ khí chất chi bẩm, hoặc bất năng tề, thi vĩ bất năng giai”. Nghĩa là: tượng từ trời sanh dân xuống cõi nhơn gian, thời đã đều cho đó chưng tánh nhơn nghĩa lễ trí vậy. Song khí chất thửa bẩm hoặc chẳng hay tay; do cớ ấy đều có khác vậy. Lấy bên Phật, bên Nho mà so sánh lại coi, thời cũng đồng một ý kiến.

Vả bổn tâm xưa nay bằng trong sạch không có một vật chi che ngăn; do nơi người dấy lòng vọng niệm, sáu căn chấp trước với sáu trần, do chấp trước mới sanh lòng tham ái, do tham ái tiêm nhiễm ngày nay thêm kiên cố, nên tâm ấy đã cuộc vào khí bẩm sở câu, mà vật dục lại che thêm lối, nên biến thành tâm vô minh rồi đó. Do tâm vô minh nên mới có thân tứ đại mới có sanh, già, bệnh, chết, nhẫn đến luân hồi sáu thú, đời đời kiếp kiếp chịu khổ không cùng đó!

Ôi! Do cớ ấy vậy nên tiếng Bác Nhã nầy mới kêu vang sáu tĩnh đặng thức tỉnh lòng, bỏ dữ làm lành; do cớ ấy vậy nên tiếng Bác Nhã nầymới inh ổi mười phương đặng giác tự tánh đem lành vào đạo.

Bớ ai ôi!

Vả thân tâm nầy đã nhiều kiếp đắm sông mê, mà thân tâm nầy cũng ghe phen chìm biển khổ, nay nghe tiếng Bác Nhã phải hồi tâm tự tỉnh, rửa sạch lòng mà về cảnh Tây Phương. Nay nghe tiếng Bác Nhãphải định ý xét suy, dứt hết nghiệp đặng lên đường Cực Lạc; chớ say mê như trước, mà đọa lạc thân sau. Như phen nầy mà chẳng dời chân, ắt muôn kiếp không phương gặp gỡ. Nên tạng kinh nói rằng: "Nhứt thất nhơn thân, vạn kiếp bất phục”, là nghĩa như ấy vậy.

Thưa quí vị, vả bổn chí đây đã học đạo từ bi, há không lòng bác ái hay sao? Vậy nên nổi tiếng Bác Nhã kêu vang tứ xứ, mở Thích Học Đường rước khách mười phương, của thập phương đãi khách thập phương kinh điển Phật, dạy dòng giống Phật. Tuy nhiệt tâm vì đạo, song một tay há vỗ nên kêu, cúi trông mong quí vị chiếu lâm, hiệp muôn suối mới thành đại hải. Ấy là do tâm Bác Nhã nên tiếng ra Bác Nhã, dòng Từ Bi phải nối đạo Từ Bi, vẫn lòng không mưu lợi danh chi, mà bán chó treo dê đối khách. Vậy nên Cổ Đức nói rằng: "Dựng Tràng pháp khắp nơi các xứ, phá lưới ngờ mấy lớp tiêu tan; dẹp xong các chúng ma quân, vậy mới thiện tam bảo”. Ấy lấy lời Cổ Đức mà suy rộng ra coi, bởi muốn thiện long, tam bảo thời phải trước dẹp chúng ma quân, muốn dẹp chúng ma quân trước phải cần dùng giáo pháp. Vậy nên bổn chí đây dụng tiếng Bác Nhã bủa ra khắp xứ, đặng thức tỉnh người bước tới bờ kia, ấy là y theo kinh giáo phụng hành chớ đâu dám dụng lời bịa đặt.

Vả ba chữ Bác Nhã Âm nầy, tuy bổn chí mới tuyên bố ra đó, song nguyên nhơn toàn thể Bác Nhã Âm trước đã phát hiện từ cung trời Đao Lợi. Nhưng trên ba mươi năm trước, dưới cõi Nhơn Hoàn bên Trung Thiên Ấn Độ, nước Ca Tỳ La Vệ, từ trong đền vua Tịnh Phạm Vương đã có tiếng ẩn ẩn vang rân khắp cả toàn cầu thế giới. Nguyên vì, Vương Hậu là bà Ma Gia Phu Nhơn sanh đặng vị Thái tử an danh là Tất Đạt, đặng bảy ngày thì bà đã thăng hà, thần thức bà hóa sanh hưởng phước trên cung trời Đao Lợi. Đến sau vị Thái Tử đã thành nhơn chi mỹ rồi, thì ngài tự giác rằng thân người như bóng huyễn, thế sự tợ chiêm bao, tuy trăm năm ngày tháng dễ bao lâu, vui một thuở khổ ngàn muôn kiếp. Ngày nay tuy quới hiển, an ở chốn vương cung, đi thời ngựa voi tướng sĩ rần rần, ở có cung điện lầu đài chớn chở; có thất trân tài bửu, có tứ hải sơn hà, ăn thì hải vị sơn trân, nắm có giường ngà nệm gấm; có cung phi mỹ nữ, có ngự uyển hoa viên, mặc dầu tình, xuân tửu xuân hoa, mặc dầu ý, thu phong thu nguyệt. Trong vương thất đoàn viên quyến thuộc, ngoài hầu gia nghiên ý phụng thừa; tuy rất quí rất tôn rất trọng, thiệt vinh hoa hiển hiện trên đời. Song khi bệnh, khi già, khi chết cũng thịt rả xương tàn dưới đất. Ôi! Còn hơi thở sơn hà vạn lý, nhắm mắt rồi xương thịt một hòm; sanh tay không thác cũng tay không của tạo hóa giao cho tạo hóa. Nếu tham ái càng thêm nghiệp chướng, phải xa lìa mới đặng thảnh thơi, luận thế sự huyễn càng thêm huyễn, xem thân mình tuy huyễn mà chơn. Trong nhục thân có ẩn pháp thân, tham cứu đặng là phương giải thoát. Ngồi suy nghĩ đêm khuya thanh vắng, vượt khỏi thành lên thẳng Tuyết sơn. Trải sáu năm khổ hạnh tu chơn, ngày ăn có hột mè hột bắp. Nhện giăng đầy trước mặt, chim lót ổ trên đầu; ngồi tự nhiên chẳng động chẳng lay, nửa đêm lố một ngôi sao sáng. Ấy Tổ Minh tinh nhi ngộ Đạo, tự nhiên vạn pháp viên dung. Liền dời chân tới cội Bồ đề, tam thất nhựt nhập kim cang định. Hiển thần thông diệu dụng, hàng phục chúng ma quân; tam giới độc xưng tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật. Từ ấy mới tuyên dương giáo pháp, đặng mở đường tế độ chúng sanh. Luận ra mối đạo tu hành, thì trước phải xây nền hiếu đạo. Nay Vương phụ hởi còn hiện tại, có bá quan trào sĩ thần hôn, còn Mẫu hậu đã thăng hà, hiện ở Thiên cung Đạo lợi. Liền vận thần thông lên yết kiến, phóng hào quang triệu chúng hữu duyên, đều chấu nhóm hằng hà sa số. Chúng Chư thiên đều tất tập, đều tán hoa lễ bái cúng dường. Thấy hào quang hóa hiện phi thường, phóng vô số quang minh sắc tướng, hóa hoa vỏ, hoa hương điệp điệp, hiện bửu vân bửu vỏ trùng cùng, chiếu ba ngàn thế giới sáng trưng, hiện vô số vô biên báu lạ. Trong lại có âm thinh vi diệu, tiếng nói ra các pháp nhiệm mầu, nói không lường tiếng pháp cao sâu, tiếng thứ sáu gọi rằngBác Nhã.

Nầy quí vị: Tiếng Bác Nhã ra đời từ đó, là trong kinh Địa Tạng: nói Đức Như Lai lên cung trời Đạo Lợi, vì Mẹ thuyết pháp, nên mới có tiếng pháp ấy. Vậy nên bổn chi đây lấy chữ Bác Nhã Âm đặng tuyên bố lại ngày nay, là có ý chiêu tập quí vị hữu duyên trong Phật pháp, nhóm họp lại đặng giúp đỡ trong thời kỳ nầy, một là tuyên bố tiếng Bác Nhã ra đặng tỉnh giác chúng mê tình, bỏ lòng bạo ngược, bỏ thói gian tham, đặng trau dồi đức tánh, đồng tu đạo Phật, đồng làm hạnh Phật, đồng chứng Phật thân; ấy là hóa độ chúng mê tình đặng trở nên hiền thánh đó. Hai là tập chúng tu học, học cho thông tam tạng chơn kinh, tu cho chứng nhứt thừa thiệt tướng; nối đèn huệ vô cùng vô tận, bủa ra sáng suốt khắp nơi, ấy là phá thế giới ty ô hắc ám, trở lại nên thế giới quang minh đó.

Ấy, quí vị suy lấy đó mà coi, phải như tất cả nhơn sanh trong thế giới, người người đều một đạo từ bi, chúng chúng thảy một lòng bác ái, thời trong trào sĩ, những trang quân tử mà ngoài thứ dân không đứa tiểu nhơn. Ấy có phải trên không người bạo ngược, dưới chẳng kẻ gian tham, trở đời ly loạn ra thăng bình, chóng chóng mau hơn nháy mắt đó chăng? Vậy mới biết đạo là chí quý, mà đạo rất chí tôn; đạo đã làm cho quốc thái dân an, đạo lại chuyển cho mưa hòa gióthuận nũa mà.

Bớ ai ơi! Ngày xưa còn chưa rõ, ngày nay đã biết rồi, kiếp mau mau tới cửa từ bi, chen vai đặng giữ bền mối đạo. Giữ đặng đạo thì gần yêu xa mến, giữ đặng đạo thì trên thuận dưới hòa, tuy là ở cõi phong ba cũng hưởng đặng trăm phần phước lạc. Song mà còn thân xương xác thịt, chưa đặng nhập thánh siêu phàm; muốn ra cho khỏi nhơn gian, thời phải học tham thiền niệm Phật. Trước đã khỏi ba đường khổ não, sau đặng ngồi chín phẩm liên hoa, cõi Tịnh độ chốn Ta Bà; một cảnh khổ, một cảnh vui, trong hai cảnh mặc dầu lòng chỗ muốn.

Vậy có câu rằng: "Tịnh độ biệt Ta bà, sát chí lý Ta bà chơn Tịnh độ”. Nghĩa là: Cõi Tịnh độ thời đất vàng cây báu, lầu các thất trân, chín phẩm hoa thơm nức, ao bảy báu sáng trưng, người hưởng phước trường xuân, sống vô cùng thọ mạng, lại có chim nói thanh thao tiếng pháp, gió rung cây nổi tiếng nhạc âm, người người đủ phép thần thông, sắc tướng tốt, hào quang sáng rỡ. Tịnh độ khác là khác thế ấy. Còn cõi Ta bà đất thì sình nẩy, gò đống thấp cao, cây chông gai, hang hố độc trùng, lại nắng gió bụi bay mù mịt. Người thời thô kịch, tánh lại gian tham; cướp giựt nhau mà đánh giết nhau, lòng hiểm độc dữ hơn ác thú; ở lòng vô đạo, phụ nghĩa vong ân, làm việc bất nhân, sát nhân hại vật; miệng ăn loài máu thịt tanh hôi, bụng chứa những lãi trùng ghê gớm. Trong chín lỗ hằng ra nhơ nhớp, ngoài hai tay bốc hốt đồ dơ. Thân là thịt chứa nuôi trùng, dầu để làm nhà cho chí. Ngày ngày thêm khổ não buộc vào, lại còn nổi sanh già bệnh chết. Người thế ấy, cảnh mà thế ấy, sóng lại coi Tịnh độ khác xa. Song mà có người trì trai giới sát, tích đức tu nhơn, niệm Phật tham thiền, thời cũng đặng về Tịnh độ. Vậy nên xét chí lý lại coi, người bên Tịnh độ thiệt trước khi ở cõi Ta bà, do chí đạo chơn tu nên chứng quả vị, hóa sanh vào đó. Vậy nên gọi rằng Tịnh độ biệt Ta bà, sát chi lý Ta bà chơn Tịnh độ là nghĩa như ấy vậy.

Lại có câu đối rằng: "Thích Ca phi Tất Đạt, cứu cùng nguyên Tất Đạt, thị Thích Ca”, nghĩa là đức Phật Thích Ca đã chứng pháp thân thanh tịnh mà đắc đạo quả cao siêu, có ngũ nhãn lục thông huyền diệu; đủ tam thân tứ trí linh thông, công thành vạn pháp viên dung, quả chứng thập phương điều ngự. Đã làm thầy ba cõi, lại tế độ muôn loài, vọi vọi ôi! Công đức như hư không, đâu có phải là ông Tất Đạt. Còn ông Tất Đạt là một ngôi Thái tử, cũng người phàm đây vậy, mà máu thịt như ta, có cha mẹ, có vợ con, đủ thú vui, rượu thịt trăng hoa, nhiều cảnh hứng, cầm kỳ thi họa. Khi thọ dụng người sang thời có khác, lúc vui buồn kẻ khó cũng như inh. Sóng lại coi, đó cũng như đây, thiệt Tất Đạt cũng người phàm bối; song có khác, khác là giác tánh, khác chẳng mê tình. Lúc vui chơi, chơi chẳng say mê, khi hứng cảnh, cảnh không chấp trước. Các cung phi thời nguyệt thẹn hoa nhường, chúng mỹ nữ thiệt chim rơi cá lặn. Sẳn sàng có quốc thành thê tử, chứa chất nhiều tài bửu thất trận, chánh đương kỳ xuân tửu xuân hoa, mà lòng chẳng tham trăng tham gió. Cũng nhiều khi tửu sắc ca sang, cũng lắm lúc điềm nhiên tịch tịnh. Rất lạ lùng thay, kỳ tuyệt diệu thay! Đương cơn loan phụng hòa hài, vục đứng dậy hai tay phủi sạch. Đã đức tình ân ái, lại chẳng đoái giang san, lánh thân ra xa biệt dặm ngàn, dao cắt tóc thề tu thành Phật. Biết bao nhiêu khổ hạnh, kể sao xiết công phu, làm những việc khó làm, nhẫn những điều nan nhẫn. Nhứt trần bất nhiễm, vạn đức viên dung, mới thành Phật Thích Ca, nhơn thiên đều lễ bái.

Ấy, quí vị xét cho tột nguồn, rồi suy nghĩ lại coi, đức Thích Ca là Phật Chí Tôn, còn Tất Đạt là ông Thái tử; ví như trời với vực, hai lẽ khác nhau xa, song Tất Đạt là kẻ tu hành sau mới thành Phật Thích Ca đó chớ. Ấy "Giác” thời xưng Phật. "” gọi chúng sanh. Vậy nên nói rằng: "Thích Ca phi Tất Đạt, cứu cùng nguyên Tất Đạt, thị Thích Ca” là nghĩa như ấy vậy. Luận Thái tử ngôi sang trên thế, thọ dụng đền vật quí hơn người; sẳn sàng muôn việc có dư, quí hiển trăm phần đều đủ, còn tu hành vì đạo, chịu khổ cực hơn người, vậy mới thành Phật Tổ Như Lai, vậy mới làm gương tam giới. Còn như chúng ta đây, đặng bao nhiêu tài bửu, đặng mấy bậc công hầu, cứ say mê những việc hiện tiền, mà chẳng đoái thân sau một chút. Vậy chữ "” đâu tránh khỏi, còn chữ "Trí” để chỗ nào? Hiệp một đoàn đoạt lợi tranh danh, đâu có bước lên bờ giác ngạn. Nên Bác Nhã giác lời cùng cạn, khuyên tri âm ngụ ý cao xa, bảo cùng nhau học sách Thích Ca, đồng nhóm lại soi gương Tất Đạt. Sự tích gồm bao quát, nghĩa lý thảy phân minh, dẫu đọc cho hết tạng kinh, thời cũng "Giác, Mê” hai chữ. Trong gương ấy tuy vô ngôn ngữ, song chiếu ra vạn sự chân toàn, thấy tam giới, thấy thập phương, thấy tất cả tam đồ, lục đạo; thấy tam thân, thấy tứ trí, thấy không tướng ngũ nhãn lục thông, thấy tất cả vị lai, quá khứ. Thấy đến đời vô thỉ vô chung. Soi gương nầy nhãn lực chẳng dùng, vận tâm đức mà soi mới thấy. Gương ấy hiệu "Đại Viên Cảnh Trí”, có từ đời vô thỉ nhẫn nay, ông Tất Đạt mới bày lại cho. Gương nầy người đều có, nhiều kiếp đã lu mờ, muốn gương nọ tỏ ra, phải gia công trau lại. Chớ chấp thân danh mà trở ngại, chẳng biết trau, kíp phải tìm Thầy, sẵn gương báu, gặp Thầy hay, trau dồi lại như xưa sáng ánh.

VẬY CÓ KỆ RẰNG˜

Sơn cư cổ kính cửu mai trần,

Kim nhựt trùng ma khí tượng tân,

Ngận cấu tịnh trừ quang thỉ hiện,

Phân minh diện kiến bổn lai nhân.

GIẢI NGHĨA˜

Gương xưa bụi lấp tự lâu nay,

Trau lại làu làu mới tốt thay,

Lằng bụi sạch trơn soi sáng suốt,

Rõ ràng trước mặt thấy người đây.

(Còn tiếp)

Nam mô A Di Đà Phật

Nay ra tờ tạp chí , vừa gặp tiết xuân thiên, chúc Triều Đình Chúa tháng Tôi hiền , nguyện le thứ cha hiền con thảo. Trong Đại Hội một đàng thân ái, ngoài Hội viên bổn phái bình an. Gió hòa mưa thuận khắp mười phang. Vật thụ nhơn khương đều bốn biển. Người học Đạo các y sở nguyện,chúng làm ăn đều xứng sở cầu. Lại nguyện cho Đông Á,Tây Âu,bải binh cách một đường hòa hão.

PHỔ NGUYỆN˜

Già trẻ đặng phước như Đông Hải,

Nam nữ đồng thọ tỷ Nam San,

Trên Sơn Môn Phật Nhựt Tăng Quang,

Dưới Hải Chúng Pháp Loan Thường Chuyển.

VĂN THUYẾT PHÁP

CỦA NGÀI PHÁP QUẢNG,

HÒA THƯỢNG BỬU SƠN TỰ,  BÀ RỊA.


=======

PHÁT MINH TÂM ĐỊA

=======

Nam mô A Di Đà Phật.

Nay tôi kính vưng bề trên, là Đại lão Pháp sư Hòa thượng, tác đại chứng minh, mà diễn thuyết văn kinh đây, đặng tuyên bố cho quí vị hội viên, kính xin quí vị hỷ nạp.

Luận về đời mạt pháp, cách Phật đã lâu xa, nên con người nhiều đều mê muội, chẳng đặng mở mang tánh trí, nên chẳng biết con đường sáng suốt rộng rãi mà đi, cứ theo lối eo hẹp khúc hiểm mà lầm lạc hoài, chịu khá thương vậy. May thay cho chúng ta ngày nay mà đặng nhơn duyên gặp gỡ bạn thiện trí thức, vào Liên Hữu nầy, mà dìu dắt nhau khỏi lo lầm đường lạc nẻo; ấy là chẳng phải nhơn duyên nhỏ đâu. Cũng nhờ đời trước chúng ta có trồng căn lành rồi đó, nên mới đặng gặp gỡ như vậy. Trên có Thầy minh sư chỉ điểm, dưới có bạn hữu giúp lời lành, thì trong lòng ta vững vàng thông thả thỉnh thoảng mà bước lên con đường cao minh sáng suốt, thì lòng ta hâm hở vào ngôi thiệt tế lý địa chớ chẳng không đâu.

Nên nay tôi diễn văn nầy đề mục là "Phát Minh Tâm Địa”, nghĩa là mở lòng dạ của tất cả mọi người, ấy là căn bổn tu hành của chúng ta đó. Nên Tiên Hiển có nói: "Quân tử vụ bổn, bổn tập đạo sanh”, nghĩa là người quân tử phải vụ nơi căn bổn là cội gốc, cội gốc vững đặng rồi, thì làm đạo mới sanh ra thông tỏ. Từ thiên tử nhẫn đến kẻ thứ dân, tất cả đều phải ta thân làm cội; nên chúng ta phải trau dồi thân, tâm đặng hoàn toàn cho trong sạch, rồi lo vung nền đạo đức mà soi thấy bổn tâm mà vung bồi cội gốc; cội gốc bền chặt thì nhánh lá tươi tốt; nhánh lá tươi tốt đặng rồi thì đơm bông nở nhụy, thấy thâu công kết quả Bồ đề, còn chờ ngày công thành thì quả thực, còn lo chi mà chẳng thành tựu sao?

Bởi vì ngày nay tánh mình còn mê muội chẳng rõ đặng bổn tâm, nên phải làm chúng sanh chớ qua một ngày kia mà mình tỏ ngộ soi thấy bổn tánh đặng rồi, tức là Phật vậy. Nên kinh Liên Tôn Bửu Giám có nói: "Duy Tâm Tịnh Độ, bổn tánh Di Đà”, nghĩa là lòng mình trong sạch là cõi Tịnh Độ, tánh mình sáng suốt là Phật Di Đà, nào có đâu xa. Tuy rằng như vậy là bực thượng căn lợi trí, nghe một mà thông hiểu trăm ngàn; chớ như bậc trung thường thì muốn lên cao, ắt từ nơi chỗ thấp, vậy mới vững vàng có ngày thăng tấn mau đặng. Ví như mình muốn làm cung điện lầu các, trước khi phải đắp nền, xây thềm cho chắc chắn, rồi dựng cột gát kèo, muốn thấy từng, hoặc cao, hoặc thấp, rộng hẹp, mới đặng hoàn toàn chắc chắn, bền chắc lâu dài, thăng tấn mới vững vàng. So lại căn tánh mỗi người ý kiến khác nhau, hoặc người sáng người tối, nên lẽ phải có mau chậm chẳng đồng, miễn cho đến địa vị thông hiểu rồi thì cũng một phép nào có khác đâu. Ví như có một con đường 500 ngàn dậm là đến chỗ báu an nhàn đó. Như người đi mau một tháng thì tới, người đi vừa vừa hai tháng mới tới, người đi chậm ba bốn tháng, cũng đều đặng tới như hai người trước đó vậy. Nên Trung Dung có nói: "Hoặc người sanh ra mà biết, hoặc có người có học mới biết, hoặc người gắng gượng học ròng mới thông hiểu; tuy phân ba bậc tóm lại tới chỗ biết cũng một bậc đều vậy. Bởi người có Lợi, Độn nên học có chậm có mau; nên Phật khai phương tiện mà thuyết ra pháp Đốn Giáo để dạy bậc thượng căn, và pháp Tiệm Giáo dạy bậc hạ căn, tùy theo căn tánh chúng sanh mà dạy bảo.

Nên chúng ta phải tham cứu tỏ biết chỗ gốc ngọn, rành việc học có trước sau, vậy ta phải dấy lòng chỉ tin mà phát nguyện cầu Thầy quy y Tam bảo, rồi gìn giữ mấy phép giới thể mới hoàn toàn sự thể quy y thọ giới theo phép thường vậy.

Còn thuyết lý vô tướng, quy y Tam bảo trong tâm của mỗi người là tự quy y Phật,nghĩa là mình nương về ông Phật trong tâm của mình, chẳng phải nương về Phật ngoài nào khác, Phật là giác vậy mình thường giác chẳng cho sai lầm thì tà ác chẳng sanh, ít lòng dục vọng mà biết đủ việc lành, hay lìa tài sắc, là vật chất bề ngoài dối giả, gọi là bậc "Lưỡng túc tôn”. Tự quy y Pháp nghĩa pháp là chánh vậy, nơi lòng mình giữ việc chánh, thì mỗi niệm không tà kiến, bởi đặng không tà kiến ắt không chấp trước nhơn ngã là gọi bậc "Ly dục tôn”. Tự quy y Tăng nghĩa tăng ấy là tịnh vậy, nơi lòng thanh tịnh thời cả thảy các cảnh giới trần lao ái dục, tánh mình đều chẳng nhiễm tới, gọi là bậc "Chúng trung tôn”; bằng nương về theo phép nầy, thiệt là quy y trong tánh của mình, vậy kêu là vô tướng quy y; mình biết rõ lý ấy mà giữ gìn cho hoàn toàn, rồi sau cầu phép giới cấm, nghĩa giới thể có tánh tội, gia tội, người tại gia đình giữ phép tánh tội, còn người xuất gia, thì giữ gìn luôn luôn. Trong bộ Tì Ni Sa Di có nói: "Giới là muôn hạnh làm tướng tiên phong dẹp giặc, giới là muôn hạnh làm cội gốc”.

Than ôi! Những người tu hành phải gìn giữ giới luật luôn luôn, như không gìn giữ thì tu hành chi đâu, nên người tu hành phải hiểu nghĩa "Tam vô lậu học”, nghĩa là: Giới, Định, Huệ, nhơn giữ giới sanh định, tánh mình định mới phát huệ, vậy phải thông hiểu lý Giới, Định, Huệ nghĩa là trong tánh mình không quấy, tâm mình thường thanh tịnh, gặp cảnh không nhiễm tới, tức là giới; còn chữ định nghĩa là tánh mình không loạn động, gặp cảnh lành dữ vui buồn phải quấy mà trong tâm mình vắng lặng như không, tức là định; còn chữ huệ nghĩa là khi biết tâm mình chẳng loạn động. Khi biết tâm mình đặng trong sạch rồi, mà chẳng sanh lòng tưởng là mình chắc đặng trong sạch, nhẫn đến việc lành dữ, hơn thua, phải quấy cũng biết rành rẽ đặng vậy, mà trong lòng không trước, không nhiễm, tánh mình cứ thong thả như thường, tức là huệ. Phép tam vô lậu học, thông giải nghĩa lý như vậy rồi, phải tham cứu cùng uyên cực để, đặng lần hồi cho đến chỗ mình tâm kiến tánh mới vững vàng dạo nghiệp.

Ôi! Biển pháp vơi vơi, rừng thuyền thẳm thẳm, chỉ như ông Thiện tài là bậc thượng căn lợi trí đi tham tầm cho tới 53 thiện tri thức biệt lập môn đình, hãy còn chưa cùng; còn trí huệ bậc nhất, là ông Xá Lợi Phất tu hạnh Đăng Độ 60 kiếp mà chẳng trọn, thật là rộng lớn thay, nhiệm mầu thay. Rất đổi Phật là bậc chí tôn, còn tam năng, tam bất năng, nghĩa nầy u thâm lắm sau sẽ giải. Bây giờ luận về tinh thần là chơn nguyên bổn tánh của tất cả mỗi người đều cũng linh tri huyền diệu, sáng suốt làu làu tỏ hơn mặt nhựt mặt nguyệt, ngậm chứa muôn trùng vũ trụ, buông ra đầy tràn thế giới, thân lại chẳng bằng mảy trần, thửa lớn không vật chi ra ngoài đặng, khi nhỏ không thứ gì lọt trong nỗi, mà không dài ngắn hơn thua, thường lặn mà hằng tỏ, thường tỏ mà hằng lặn, thiệt là huyền diệu nhiệm mầu, nào có thua kém bậc nào đâu.

Vì bởi mình trau dồi chưa đặng trong sạch, nên phải chịu lờ mờ, vì nồi nghiệp trong phước khinh, chướng dày, huệ mỏng, mắc danh lợi nó che phủ bổn nguyện Phật tánh của mình, mà chịu phần chậm trễ, chớ mình trau dồi mà tỏ ngộ đặng rồi thì Phật với tâm của chúng sanh, ba ngôi cũng dồng một không sai khác. Nên bây giờ chúng ta gắng chí thiền mà phát nguyện, đặng trau dồi bổn tánh mình cho trong sạch, thì thấy cảnh Tây phương chính ở trước mắt nào có đâuxa; vậy tôi xin khuyên trong hội chúng tất cả mỗi người đều phải tự nghĩ, tâm tánh của mình làm sao cho khỏi chỗ lỗi lầm; vì ta từ đời vô thỉ nhẫn nay gây làm những điều ác nghiệp, hoặc đời trước hoặc đời nay, những là tham, sân, si tự nơi thân làm, miệng nói, ý tưởng các việc lỗi lầm mà sanh ra đến ngày nay, ta tự nghĩ tất cả việc lỗi lầm, nên bây giờ phát tâm chí thiền mà sám hối. Nghĩa chữ sám hối "Sám tiền khiên”, nghĩa sám từ tội trước "Hối hậu quả”, nghĩa là ăn năn lỗi sau, chẳng đặng tái tạo nữa, nghĩa là tội trước đã dứt, lỗi sau không còn thì ra người trong sạch.

Vậy thì chúng ta phải biết lý vô tướng sám hối, thì tội lỗi trước đặng dứt, mà sao thêm đặng công đức lớn; chớ như ngày sóc vọng mà lạy theo lệ thường sám hối, là hữu tướng sám hối, còn e lỗi ấy chưa đặng dứt, nên chúng ta phải trau dồi trong tâm, mình mà giữ gìn phép vô tướng sám hối, thì dứt đặng tội lỗi ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai khiến tiêu ác nghiệp, tội chướng đều đặng thanh tịnh, thì chúng ta sẽ tự nghĩ như vậy, từ niệm trước, niệm bây giờ, niệm chưa đến, ta tự nghĩa mà xét chẳng cho mắc những điều lầm lỗi từ trước chỗ có gây nghiệp dữ. Các tội thảy đều sám hối, nguyện bây giờ một khi tiêu dứt cho đến ngày cuối cùng chẳng dám tạo lại nữa; ấy là; vô tướng sám hối đó. Nên phải trau dồi trong tâm mình, ngăn ngừa các lỗi lầm thì ra người trong sạch, hễ người trong sạch thì không ô uế, người thong thả, thì không ràng buộc, khi vui vẻ, thì không giận hờn, khi mình bước lên bậc Thánh thì hết tâm phàm, cho nên máy thiền mà tỏ ngộ đặng, hồi quan trong một niệm dừng cho sai lầm, thì thấy huyền diệu nhiệm mầu biết là đường nào? Cúi xin trong hội chúng, liệt vị đồng bào, phải gắng mà phát nguyện, cầu đạo vô thượng Bồ đề chí tâm, vậy mới là đại nguyện đại hạnh, mới vừa ý Đức như Lai, chớ phát nguyện mà lìa bỏ cõi trần nầy, mà cầu về cõi thiên đường hưởng phước báo sung sướng lâu dài, hơn cõi nầy thập bội, há bội đi nữa, mãn hạng rồi cũng phải trở lại mà chịu nẽo luân hồi trong đàng sanh tử hoài hoài, là có lợi bao nhiêu đâu, chi bằng đáy lòng mà phát nguyệnBồ đề chí tâm, đã có Chư Phật hộ niệm, lại thêm Chư Thiên phò trì, thường làm đạo Bồ tát đời đời, chẳng lui sụt trước ta dấy lòng phát bốn lời hoằng thệ nguyện như vầy; trong tâm của chúng ta có chúng sanh xen lộn không ngằn, ta phải thệ nguyện mà độ cho hết; trong tâm ta có ma phiền não kể không xiết thệ nguyện trừ dứt, trong lành ta có phép môn không lường, thệ nguyện học hoài; trong tánh ta có đạo Phật vô thượng thệ nguyện thành tựu. Gọi là: tứ hoằng thệ nguyện cũng trong tâm tánh mình mà cầu nguyện vậy, nên trong tâm tánh mình mà dấy ra nên trong kinh nói; trong tâm mình muốn sanh ra mỗi việc chi, việc ấy đều sanh; tâm mình muốn dứt việc chi việc ấy đều dứt.

Bởi chúng sanh căn tánh chẳng đồng, người muốn thế nầy kẻ muốn thế khác, hoặc tánh kiêu căng, rồi chấp trước, nhơn ngã sanh ra bỉ thử, rồi thương ghét hơn thua phải quấy biết là bao nhiêu căn tánh, kể sao cho xiết, vậy mà Phật cũng tùy theo căn tánh của chúng sanh, mà dạy bảo diềudắc lần hồi cho đến bờ bực kia, nên mới biết Phật thương chúng sanh hơn Mẹ thương con, vì vậy Phật mới thuyết ra ba tạng Kinh, Luật, cho người tụng kinh đặng tỏ ngộ tri kiến của Phật mà lần vào nơi giác địa, còn Luật thì giữ gìn mà ngăn ngừa chừa lòng dục vọng, lời tri kiến của chúng sanh, lên bậc trang hoàng đoan nghiêm chuẩn tắc, mà người phải thể theo hồi tâm mà tự tỉnh, đặng khuyên thiện cùng nhau tương thân tương ái đặng điều dắt nhau cho tới chỗ chí thiện mà hưởng an nhàn thong thả, chẳng hơn còn chấp trước riêng theo tánh mình, mà đua chen xâm lấn hơn thua, phải quấy cùng nhau hoài, nào có lợi ích chi, nên Phật sợ chúng sanh chẳng tự tĩnh mà hồi tâm, ắt chìm đắm nơi sông mê biển khổ hoài, mới mở lòng phương tiện mà thuyết ra tám muôn bốn ngàn pháp môn, để cho chúng sanh tùy căn lượng lực mà tu hành, cho đặng lên con đường giải thoát, bởi chúng sanh căn tánh chẳng phải một, nên Phật phải nói nhiều Pháp môn, phải đặng chúng sanh căn tánh mà ròng một, thì Phật có nói làm chi cho nhiều.

Ví như ông lương y thông rành tánh thuốc biết những vị là hàng, ôn, bổ, tả để trị căn bệnh của chúng sanh, phải như mà chúng sanh không bệnh, dầu cao đơn, hoàn tán, nhẫn đến vị thuốc tiên đi nữa cũng chẳng dùng chi, Phật nói nhiều pháp môn ý cũng như vậy, Phật lòng từ bi bác ái tràn trề nên chẳng nỡ để cho chúng sanh sa đấm, nên mới phương tiện nhiều vậy.

Vậy chúng ta nghe theo lời Đức Phật mà thể theo lý thuyết ấy, đặng trao dồi thân tâm mà tìm con đường sáng suốt bằng thẳng mà đi cho mau đến bờ kia, mà cầu giải thoát trong một kiếp nầy mới vừa lòng của Đức Thế Tôn, chẳng nên để cho Phật âu lo quá như vậy, ấy là Phật bởi còn lo sợ mà phú chúc cặn kẻ dặn dò trong các hàng Bồ tát phải tầm thinh mà cứu khổ chúng sanh chờ để chúng sanh nó sa lạc trong ba đàng dữ, khi ấy các hàng Bồ tát đều kính vâng lời Phật mà ngậm ngùi rơi nước mắt mà bạch Phật lời rằng: xin Phật chớ lo, chúng tôi cũng nương nhờ oai thần của Phật mà đặng phân thân tàng thể, theo loại mà hiện hình như mỗi loài chúng nó, đặng giáo hóa dìu dắt đặng nó qui đầu ngôi Tam Bảo, nhưng hãy còn một hai kẻ chúng sanh thửa tánh cứng cõi, khó nỗi bề hàng phục nó. Phật lại bảo lời rằng: Tất cả chúng sanh cũng như con ta, vì con cũng có đứa khôn đứa dại, cũng phải phương tiện mà dạy dỗ dìu dắt lần lần, lâu nó cũng hồi tâm mà hướng đạo, nỡ để chúng nó đi lầm lạc hoài hay sao?

Như vậy Phật còn dặn bảo hàng Bồ tát đôi ba lần, hàng Bồ tát đều kính vâng lời Phật mà bạch rằng: xin Phật chớ lo vậy thì chúng ta phải tự nghĩ, ơn đức của Phật rộng lớn vô cùng, thiệt hơn Cha Mẹ mà lo cho con vậy; chúng ta phải lo làm sao mà đền đáp ơn đức của Phật muôn ngàn phần trong một hai, biết làm sao mà đền đáp bây giờ? Ừ! Có một lẽ là mình lo tu hành cho tinh tấn ròng rã, mình làm đặng mà hóa người đều nên đạo Phật, vậy mới gọi đền đáp muôn phần trong một, thì mới thỏa bổn nguyện của đức phật .

(Còn tiếp)


THÂN TÂM LƯỢC GIẢI

===DIỄN NGHĨA===


Chúng ta tin theo Đạo Phật phát nguyện tu hành, là tu Thân, tu Tâm đó; thì ngày nay cần nhất phải biết cái Thân–Tâmta là thế nào.

CáiThân–Tâm ta khi trước hết, thọ nguyên tinh khí, thần mà sanh ra, đều là tròn vẹn, khôn–lanh, êm lặng không chút nào khư y-khuyết, không chút nào bụi nhơ. Ấy là Thân–Tâm thiệt của ta đó, mà người không biết, cứ vận nhận cái thân, Đất, Nước, Lửa, Gió, thoạt nhóm thoạt tan làm thân ta: ấy là cái Thân giả, chẳng phải Thân thiệt. Lại vận nhận cái Tâm đảo lường lo lắng, khi dấy, khi đức làm cái Tâm ta ấy là cái Tâm dối chẳng phải Tâm thiệt. Mà nay ta muốn cùng cứu cái thể lượng, cái diệu dụng củaThân–Tâm ta cần nhất phải xem sách. Sách Nho nói: "Tĩnh Tâm”, kinh Phật nói: "Tịnh Tâm”, nghĩa là nói mình có cái Tâm thì phải xét và lại nói mình có cái Tâm phải giữ cho sạch.

Các lời giải cái Thân–Tâm, toàn thấy trong sách Nho kinh Phật chỗ nào cũng có, song cũng là một lẽ mà thôi.

Bởi Hội nầy hiện nay đã ấn định ra qui chuẩn nói trên kỳ thứ nhất, kỳ thứ nhì, tưởng cũng to tác bộn nhiều, mà tóm tắt lại thì cũng đều là muốn cho chúng ta biết nhận lấy cái Thân–Tâm thiệt của mình, nghi làm sao mà tới được chỗ cao minh, và lại bỏ cái Thân–Tâm dối của mình, nghĩ làm sao mà tránh khỏi chỗ u ám đó. Thôi vì cái Thân nầy là cái Thân chúng sanh trông cậy, cái Thân nước nhà cậy dùng, mà tột đến những việc thoát phàm vào Thánh, bủa dạy giúp người cũng đều là cái Thân nầy làm ra đó. Cái Tâm nầy là cái Tâm sớm giữ các sự lành hay để cất chứa những trí huệ lớn tột đến những sự vớt khổ cho chúng sanh, để vui cho chúng sanh thì cũng đều là cái Tâm nầy suy ra đó.

Chúng ta thảy cũng đều có cái Tâm-Thân đó, mà hiện nay chưa hay đều sanh về nước Phật, đều kết nên quả Phật, là cớ làm sao? Cũng bởi vì chưa hay, đều dấy theo lòng Phật, tu theo đạo Phật.

LỜI NÓI˜

Tâm thân trước đều linh giác,

Người thánh phàm chẳng khác chi nhau,

Thân nầy đều thảy sang giàu,

Tâm nầy đều thảy làu làu như gương.

Bên Thích-Giáo, trọng đường vô diệt,

Bên Nho-Thơ, qui biết tự-tân,

Muốn cho thoát khỏi lụy trần,

Cũng nhờ Phật chuyển Pháp luân mới thành.

Tú Tài Văn Thứ

Thưởng thọ Hàn Lâm Đải


THIÊN THAI THIỀN GIÁO TÔNG

LIÊN HỮU HỘI, BÀ RỊA.

TỜ KIẾT NHẬN

ĐẠI HỘI, ngày 16 Fevrier 1936


Chiếu theo điều thứ 21 điều lệ của Hội Phật Học Tương Tế an danh là: Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu Hội”, hội viên đã nhóm tại Hội quán ngày 16 Fevrier 1936 lúc 18h00 .

Số người dự hội trên một phần hai số hội viên, đúng lệ đã dự định trong điều thứ 14 Qui Điều Nội Trị. Nên quan chánh hội trưởng Phạm Hữu Đức tỏ lòng cám ơn chư vị hội viên chẳng nệ đường xa, vì lời ông mời đến nhóm hội rất đông và xin khai hội, kế trao lời cho viên phó từ hàng đọc tờ phúc bẩm của hai viện kiểm soát tài chánh, trình cho hội.

I.KIỂM SOÁT SỔ THÂU XUẤT NĂM 1935:

Tờ phúc bẩm đệ trình cho đại hội của hai viên chức bàn trị sự tiến cử kiểm soát tài chánh, trình cho thủ bổn:

Năm một nghìn chín trăm ba mươi sáu, ngày rằm tháng giêng năm Bính Tý, ( 7 Fevrivre) , Bàn trị sự bầu cử chúng tôi kiểm soát tài chánh và sổ thâu xuất của ông thủ bổn Đỗ Phước Tâm, nên sau khi xem xét rồi, chúng tôi đệ trình tờ phúc bẩm này cho đại hội tường lãm.

II.CỬ BÀN TRỊ SỰ NĂM 1936:

Nhiều người tỏ bằng lòng Bàn trị sự năm rồi vì đã lo kham phận sự và cần cầu ông Phạm Hữu Đức gửi lời chánh hội trưởng và cho ngài đặng quyền chọn cử người phụ giúp đặng làm cho đạt thành những công việc hữu ích cho Hội mà ông đã khởi sự, nhưng chưa rồi. Sau khi vài phút bàn tính, bàn trị sự sau đây được đại hội ứng cử:

- PHẠM HỮU ĐỨC, Giám đốc hồi hưu, hàm tri huyện, thưởng thọ ngủ đẳng bội tinh ở Bàrịa: Chánh hội trưởng.

- THÁI VĂN CHANH, Quan một hồi hưu, thưởng thọ ngủ đẳng bội tinh, ở An Ngãi: p. hội trưởng.

- BÙI SƠN TÂY, tri phủ hồi hưu, ở Bàrịa: id.

- ĐỖ PHƯỚC TÂM, tri phủ hồi hưu ở Hắt Lăng: thủ bổn.

- PHAN VĂN SÔ, cựu cai tổng ở Tam Phước: p. thủ bổn.

- PHẠM VĂN ĐỀ, thông phán sở thương chánh hồi hưu ở An Ngãi: từ hàng.

- LÊ VĂN HUỀ, thơ toán hội canh nông Bàrịa: p. từ hàng.

- TRƯƠNG VĂN TÝ, cựu hội đồng địa hạt ở Long Kiên: cố vấn viên.

- TRẦN VĂN LIÊN, cựu hương cả ở An Ngãi: id.

- NGUYỄN VĂN NGƯU, cựu hương sư ở Tam Phước: id.

- NGUYỄN VĂN QUÍ, hương chủ ở Hắt Lăng: id.

III.XUẤT BẢN TẠP CHÍ "BÁT NHÃ ÂM”

Ông Đỗ Phước Tâm cúng lại cho Hội giấy phép xuất bản tạp chí Phật học, an danh là Bác Nhã Âm , mỗi tháng hai kỳ, do lời nghị của quan Toàn Quyền Đông Pháp ngày 30 December 1935 và để cho Hội trọn quyền thâu xuất tài chánh, người chỉ còn giữ bản quyền quản lí đặng chịu phần trách nhiệm trước pháp luật mà thôi.

Sau khi bàn định coi có nên xuất bản tạp chí hay không, và do bởi số đông người chịu, nên Đại hội định xuất bản mỗi tháng một kỳ và sẽ phát không cho hội viên chớ không có bán.

IV.ĐỊNH VIỆC KHAI HƯƠNG HOẶC KHAI GIA GIÁO TRONG NĂM 1936

Sau khi bàn tính rồi, Đại hội định phải khai trường Đại học cho gấp đặng đào tạo giáo sư nam nữ, thành tài rồi sẽ phái đi dạy học trò trong các chùa ở các tỉnh đã vào Hội rồi. Vì vậy , nên định trong tuần tháng tư tới đây khai gia giáo liền tại hội quán, trong một cái nhà tạm, chớ chừng nào trường Đại học cất rồi sẽ dọn về đó. Cơm nước thì về phần Hội chịu, những vị sẽ chấm học là người đã xuất gia và phải có giới hạnh cụ túc.

Chương trình dạy học sẽ nói trong Qui Điều Nội Trị sau đây:

V.QUI ĐIỀU NỘI TRỊ VỀ SỰ LẬP THÍCH HỌC ĐƯỜNG VÀ LẬP BAN ĐẠI LÝ Ở CÁC TỈNH

Sau khi đọc từ điều, và mỗi điều sau khi sửa đổi rồi, đã đặng Đại Hội ưng thuận và sau khi đọc chung lại thì Qui Điều Nội Trị sau đây đã đặng Đại Hội phê chuẩn.

˜™

QUI ĐIỀU NỘI TRỊ


CHƯƠNG THỨ NHẤT

VỀ SỰ LẬP TRƯỜNG SƠ HỌC TẠI CHÙA Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG

ĐIỀU THỨ NHỨT: Như chùa nào ở các địa phương đã vào Hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông rồi và có số học trò xin học ít nửa là 20 người thì sẽ lập tại đó một cái trường sơ Phật học.

Học trò chia làm hai hạng:

1. Là phái tại gia

2. Là phái xuất gia

Phái tại gia thì ăn cơm nhà đi học như trường nhà nước vậy, khỏi đóng tiền chi cho chùa hết, còn phái xuất gia thường kêu là " đạo ở chùa” thì ăn cơm chùa mà học, song phải làm công quả, công phu bái sám.

ĐIỀU THỨ 2: Sự học chữ nho thì hai phái học chung. Chương trình dạy học chữ nho là: học tam thiên tự, minh tâm, ấu học và tứ thơ.

Học Phật thì chia làm hai: học trò tại gia thì học kinh tịnh độ, đạo ở chùa thì phải học thêm hai thời khóa tụng, Luật Trườnghàng, kinh Địa Tạng, Luật giải, Qui ngươn, Bửu Đàng.

ĐIỀU THỨ 3: Cuối mỗi năm đều có thi, trò nào chấm đậu sẽ cho học cao hơn tại trường Đại Học ở Hội quán, nếu chúng nó muốn học nữa.

ĐIỀU THỨ 4: Thầy dạy tại trường chùa này, là ông trụ trì của chùa. Như ông trụ trì không đủ sức dạy thì hội sẽ phái một vị giáo sư đến dạy. Ông giáo sư này là người đã có học đại học ở Hội quán và đã thi đậu tốt nghiệp. Chùa nào thỉnh giáo sư của Hội thì phải chịu tiền hành lý, tiền cơm nước, thuốc men thuế khóa cho vị ấy.

CHƯƠNG THỨ NHÌ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TẠI HỘI QUÁN

ĐIỀU THỨ 5: Thức lệ lập thích học đường tại Hội quán thì đã nói rồi trong điều thứ 3 Qui Điều Nội Trị ngày 31 Mars 1935 và đã đặng quan Thống Đốc Nam Kì phê chuẩn ngày 15, Juillet,

1935.

Học trò đến học tại trường Đại Học này là người đã xuất gia và đã lão thông kinh luật đúng theo bậc sa di và đặng giới hạnh cụ túc.

Bàn Chứng Minh Điệu Sư kiểm xét chắc rằng người xin học tại Đại Học Đường, tánh hạnh đúng theo thức lệ đã nói trên đây mới cho nhập học.

Tiền sở phí cơm nước, tiền thầy dạy học thì phải về phần Hội chịu.

ĐIỀU THỨ 6: Chương trình dạy chữ nho thì cao hơn bực sơ học và sẽ quyết định chắc, còn về học phật thì phải chịu có bộ Luật giải, Bửu Đàng, Qui Ngươn và học kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Pháp giới và học phép Tham thiền.

ĐIỀU THỨ 7: Cuối năm sẽ có mở một cuộc thi, nếu vị nào được chấm đậu đó mà không chùa riêng thì hội sẽ bổ dạy tại trường chùa ở các tỉnh.

Ban Chứng Minh Điệu Sư, sau khi thi rồi thì tùy tài năng và đức hạnh của mỗi vị mà cho cấp bằng. Như sau trường có khai trường kỳ thi cứ y theo thứ tự đã sắp trước mà chọn Tam sư Thất chứng.

ĐIỀU THỨ 8: Trường tiểu học và trường đại học Phật nói trên đây chịu quyền kiểm soát của chính phủ như trường học phật Cao Miên ở sứ Nam Kỳ vậy.

™

CHƯƠNG THỨ BA

BAN ĐẠI LÝ CỦA THIÊN THAI THIỀN GIÁO TÔNG Ở CÁC TỈNH THƯỜNG KÊU LÀ HỘI TỊNH ĐỘ

ĐIỀU THỨ 9: Ở các địa phương, nếu chỗ nào hội viên trên 50 người thì sẽ lập một Ban đại lý thay mặt cho Hội quán gồm có mấy chức sau:

Phái tăng già: Chánh Điệu sư, Phó Điệu sư, Chánh thị sư, Phó thị sư.

Phái cư sĩ: chánh đại biểu, phó đại biểu, chánh giáo viên, phó giáo viên, thủ bổn, chánh trị sự, phó trị sự và thông tin

ĐIỀU THỨ 10: Bên phái tăng già thì lo kiểm xét coi hội viên bên phái tăng già có ý theo tòng lâm hay không và chỉ bảo cho phái thiện tín tu học.

Mỗi kì sóc vọng, tại chùa của ông Chánh hoặc ông Phó Điệu sư, tùy theo sự cận tiện, có cắt nghĩa kinh, hoặc trùng tuyên và diễn nghĩa những bài thuyết pháp của Hội ban ra.

ĐIỀU THỨ 11: Bên phái cư sĩ thì lo cổ động và thâu tiền cho Hội, lo chọn học sinh tại tỉnh mình, lo việc hiếu sự của mỗi hội viên đã nói rồi trong điều thứ 8 Qui Điều Nội Trị ngày 31 mars 1935.

ĐIỀU THỨ 12: Ban đại lý ở các tỉnh, thường kêu là Hội Tịnh Độ được phép thâu tiền của hội viên để dùng riêng về việc tang sự, tùy theo phong tục mỗi chỗ , tiền này thủ bổn giữ gìn, như sắm y phục cho đồng nhi, sắm lễ phúng điếu cho tang gia , tiền xe và tiền phí lộ cho hội viên thừa hành phật sự v.v..

ĐIỀU THỨ 13: Nếu có thể được, Ban đại lý của mỗi tỉnh dạy một bọn đồng nhi học nghi tịnh độ để dùng về việc tang sự. Nghi này của Sư Cụ Tác Đại Chứng Minh đã sắp sẵn và đã tái bản rồi, chỗ nào cần dùng, cho ban trị sự hay thì hội sẽ gửi cho không , đặng cho đồng nhi mỗi tỉnh học chung một bài, sau dễ hành sự.

ĐIỀU THỨ 14: Trong tỉnh nào đã lập Ban đại lý rồi, phải cho Ban trị sự hay đặng xin phép quan chánh phủ, Tỉnh sở tại, cho khỏi việc trở ngại về sau.

Do Đại Hội bàn định và ưng thuận ngày 16 Fevrier 1936.

Không ai xin nói nữa, nên ông Chánh hội trưởng khai mãng Hội hồi 10h00 tối


Từ Hàng

Chánh Hội Trưởng

Kí tên: Phạm Văn Đề

Kí tên: Phạm Hữu Đức

Chủ trương | Biên tập & Trị sự | Gửi bài cộng tác | Ủng hộ trang Web | Liên hệ