Hình ảnh mẹ qua thi ca Viet Nam
Truyền thống Việt Nam từ ngàn xưa đã xem đạo hiếu là lửa thiêng hun đúc tinh thần gia tộc. “Một lòng thờ mẹ kình cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”, lời nhắc nhỡ ấy đã thành kinh nhật tụng khắc ghi trong lòng mỗi người con nước Việt.

Ca dao bình dân nước ta truyền từ đời này qua đời khác có câu "Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ” hay "Tu đâu cho bằng tu nhà. Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”… đã trở thành di sản tinh thần được truyền qua bao thế hệ. Người đời cũng thường có câu ví "Lương y như từ mẫu”, ý muốn đem hình ảnh người mẹ hiền ra để làm tiêu chuẩn cho sự chăm sóc tận tình ở những người thấy thuốc chuyên lo việc cứu người. Ngay đến tục ngữ dân gian cũng có câu: "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” là một phần nào nói lên sự chiều chuộng của mẹ dành cho con. Thế cho nên sử gia Trần Trọng Kim khẳng định: "Trong những thần tượng cao quí để ta tôn thờ thì mẹ là hình ảnh cao quí nhất để chúng ta tôn kính mà không sợ thất vọng vì thần tượng sụp đỗ.”
Đọc lại những dòng di cảo của Duyên Anh viết về mẹ: "Mẹ như mặt trời phúc hậu, như mặt trăng hiền từ soi sáng cùng trái đất, như gió thổi nhẹ nhàng vào hồn chúng con. Ca dao ngợi ca nhiều về dòng dõi cò, chúng con đã thuộc lòng các bài thơ cò vì cò mẹ chính là mẹ chúng con, "Con cò mà đi ăn đêm, đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi, ông vớt tôi nao. Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong, đừng xáo nước đục đau lòng cò con.”. Mẹ ơi! mẹ cả đời vất vả vì chúng con, mẹ cả đời gầy ốm vì chúng con, mẹ kiếm mòi lận đận vì chúng con và cũng vì chúng con mẹ thèm được chết trong sạch và liêm khiết, mẹ bằng lòng chết dưới dòng nước nguyên trinh và nhất định chối từ chết ở nước ao tù dơ bẩn. Dù phải giã biệt cuộc đời, mẹ vẫn giữ tấm lòng Chân Thiện Mỹ lại cho chúng con”. Cùng cái ý ấy, thi sĩ Trí Phong - Thích Đồng Lưu đã viết:"Chiều sang rồi lại chiều sang. Có con cò trắng bay ngang thường ngày. Trời sao ảm đạm chiều nay. Sao tôi cảm thấy cò bay đâu rồi. Lặng nhìn hoa tím dần trôi. Giật mình nhớ lại nằm nôi thuở nào. Ầu ơ tiếng mẹ ngọt ngào. Thân cò mẹ chịu gian lao sớm ngày. Giờ cầm hoa trắng trên tay. Chút hình còn lại thường ngày bay ngang”. Một hình ảnh về người mẹ Việt Nam tiêu biểu mà Thi sĩ Trần Quê Hương bày tỏ: "Mẹ là cô gái trân chuyên. Hai mươi tuổi ngọc vui miền hương quê. Sáng đi buôn, chiều lại về. Ngày ngày hai lượt gót mê phận nghèo”. Điều đáng nói là ở chỗ, mẹ nuôi con trăm đường vất vả mà không bao giờ quảng ngại, lúc nào cũng canh cánh bên lòng một ước vọng khi được nhìn thấy con nên người!
Sách Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân kể câu chuyện hai chị em mồ côi cô Tú và cậu Chuyên sống trong cảnh heo hút sau khi cha mẹ quá vãng, chị dồn sức lo tương lai của em, đến nỗi quên cả bản thân mình đang là một thiếu nữ ở tuổi đôi mươi. Nguyễn Tuân viết: "Cô Tú bây giờ đã là một người mẹ, người mẹ rất trẻ…”Tác giả viết như thế để khỏi dài dòng mô tả về sự ân cần của cô Tú đối với cậu Chuyên, bởi vì chỉ cần hai chữ người mẹ đã hàm chứa hết chiều sâu miên mang mà không cần phải nói thêm gì nữa. Nhà thơ Hồ Dzếnh viết chuyện Chân trời cũ, chuyện thật của đời ông, của nhà ông với hình ảnh người mẹ sáng chói mà nhà văn Thạch Lam nhận xét rằng: Bà mẹ Việt Nam là những người đàn bà làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết chụi khó với chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn. Cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hy sinh mãi trong lặng lẽ. Bà mẹ Hồ Dzếnh cũng là bà mẹ chung của mọi đứa con Việt Nam, bà mẹ mà tất cả các con phải lên tiếng cất lên lời xưng tụng như Hồ Dzếnh đã viết về người phụ nữ Việt Nam: "Cô gái Việt Nam ơi, nếu chữ hy sinh có ở đời, tôi muốn nàm vàn muôn khổ cực, cho lòng cô gái Việt Nam tươi”.
Đời mẹ có thể gọi là một bản trường ca thống khổ, cái khổ vì nghèo không thắm gì so với cái khổ vì chia lìa li tán, cho nên cũng có thể nói rằng mẹ cả đời chờ đợi; chờ chồng, chờ con. Hãy hình dung người mẹ héo hon, nhìn về phương trời xa mong móng những bóng hình thương yêu đang biền biệt: "Bóng mẹ vào ra lối ngõ quen. Tóc sương dần xóa tóc màu đen. Nhớ ai sa nhậm lời kinh nguyệt. Khuya nỗi niềm khuya một ngọn đèn”. Bốn câu thơ trên của Phan Minh Hồng đã đủ cho ta mườn tượng cái cảnh phòng không gói chiếc lủi thủi đêm ngày của người mẹ xa con. Thi sĩ Trần Quê Hương nói lên những dòng xúc cảm về sự chia lìa ly tán của người đàn bà Việt Nam qua những vần thơ: "Cô gái hai mươi thành thiếu phụ. Khóc tình chưa cạn lệ chia ly. Rồi nay lại khóc thân đơn lẻ. Anh hỡi! sao mà vội sớm đi?”.
Thời kháng chiến chống pháp nhà thơ Phạm Tú Quyên, ẩn nấp trong rừng sâu vẫn có những vần thơ nhớ mẹ thật cảm động: "Có những buổi chiều vàng ngồi chứng kiến. Nhìn non xanh hùng vĩ bốn ngàn năm. Bỗng hiện về bóng mẹ chốn xa xâm. Tóc trắng khướt tay gày nâng gậy trúc.”. Một thi sĩ quân đội từ chiến trường đã nhờ bạn mình về nhắn cho mẹ: "Nếu mai đây bạn về chốn cũ. Kiếm dùm tôi người mẹ thân yêu. Nói với người rằng vì nghĩa vụ. Đứa con yêu đã thác một chiều”...
Nhạc sĩ Y Vân viết ca khúc Lòng Mẹ "Lòng mẹ thương con như vầng trăng tròn mùa thu. Tình mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ. Lời ru man mác êm như sáo diều dật dờ. Nắng mưa sớm chiều vui cùng tiếng hát trẻ thơ... Dù cho mưa nắng không quản thân gầy mẹ hiền. Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền...” hay ca khúc Mẹ Tôi của Nhị Hà: "Mẹ tôi nắng mưa chẳng ngại nhọc nhằn. Mẹ tôi mỉm cười nhìn bóng con ngoan. Không than, không phiền dù lâm hoạn nạn. Lòng tin con mình xứng thành người dân... Chiều chiều, bên liếp lều tranh. Mẹ tôi đứng đợi đàn con. Trước gió tóc trắng lòa xòa. Đôi mắt dịu hiền như bể tình thương...”. Hồ Thu (Thu Hồ), năm 1943 ông từ Huế vào miền Nam để vật lộn với đời sống, đêm nằm bên rừng cao su mà nhớ thương đến người mẹ quê nhà đang ngày đêm trông ngóng chờ mong con về. Ông viết: "... Mẹ ơi, ra đi đời con sá chi, mơ ngày về dưới ánh đèn lâm ly. Bên mẹ vui quên khúc ca ngày đi. Ai ngờ rồi cũng đến ngày phân ly...”. Tất cả những ca khúc viết về mẹ cũng đều muốn nói lớn lên một thông điệp bất biến rằng, nhân loại có bao nhiêu con người thì cũng có bấy nhiêu bản tình ca mẹ, nhiều nhất là những bản tình ca không lời, bởi vì không lời nào có thể nói hết lòng mẹ.
Xa mẹ mà biết mẹ đang mong chờ ở quê nhà thì vẫn còn là một niềm hạnh phúc, mất mẹ mới thật là bất hạnh. Ta hãy nghe Minh Đức - Hoài Trinh bầy tỏ: "Ngày giờ này mẹ không còn trên cõi đời nữa. Mất mẹ mà không được gặp, không được đưa mẹ ra nghĩa trang, không được đội nón trắng, theo sau linh cửu là nỗi ân hận nhất đời con, mẹ có biết không?! Ngày ấy, mẹ thường phàn nàn lo sợ cho chúng con mai sau lận đận. Mẹ thường giảng về cái nghiệp lực đeo đuổi của mỗi người. Hẳn, con đã tạo nhiều nghiệp ác trong kiếp trước nhưng chắc cũng có tạo chút ít nghiệp lành nên mới sinh ra làm con của mẹ để thừa hường cái gia tài lễ giáo. Mẹ hãy nhận nơi đây những lời sám hối của con, vì con đã có khi làm cho mẹ buồn, mẹ khóc…”. Cũng giống như nỗi niềm bâng khuâng của Minh Đức Hoài Trinh, thi sĩ Huệ Giáo viết về nỗi mất mẹ: "Mẹ hiền như thể trăng sao. Một khi trăng lặn đất trời lung lay”...
Chẳng có cha mẹ nào sống mãi với con, cho nên ngày nào còn mẹ cha bên đời, ta đừng quên bổn phận làm con. Thời đầu nhà Nguyễn, ở làng Võ Thạch có ông Nguyễn Huy Đức thi đậu cử nhân, triều đình đã ba lần gọi ra làm quan nhưng ông đều từ chối vì không muốn xa mẹ. Khi mẹ qua đời, ông khóc than mãi vì mẹ mất sớm không còn cơ hội phụng dưỡng, mặc dù năm ấy mẹ ông đã 97 tuổi. Thật đúng với câu "Nhất nhật đại dưỡng bất dĩ tam công hoán” (một ngày còn được dịp phụng dưỡng cha mẹ thì dù có đổi lấy chức tam công cũng chẳng màng). Cổ nhân ta quan niệm như thế cho nên những bậc hiếu tử không một ngày xao lãng việc phụng dưỡng cha mẹ: "Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con”. Thế nhưng, trong cuộc đời vẫn còn những kẻ bất hiếu: "Cha mẹ nuôi con biển hồ lai lán. Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”, đó là lời thống trách những kẻ bạc nghĩa. Xử bạc với mẹ cha mà tốt với người ngoài thì chỉ là chắc để cầu lợi mà thôi!
Ngày nay, xã hội không đồi hỏi con cái phải báo hiếu như ông Ngô Mãnh (trong Nhị thập tứ hiếu) đêm nằm ngủ giữa nhà cởi hết quần áo để muỗi bu lại đốt mình mà khỏi đốt cha mẹ. Các bậc phụ mẫu thời nay cũng chăng bao giờ mong con cư xử với mình theo lối xa xưa bởi con cũng cần có cuộc sống riêng hòa nhập với xã hội hiện đại. Nhưng bổn phận làm con không thể quên công lao sinh thành dưỡng dục. Một lời thăm hỏi, một lá thư vấn an, một chuyến viếng thăm hay một chút quà trong ngày sinh nhật, một bữa tiệc họp mặt gia đình, thuốc thang khi đau ốm và nhất là những cử chỉ và lời nói ân cần lễ độ. Những thứ ấy có khó khăn gì lắm đâu mà đôi khi con cái cũng xao lãng để làm nát lòng mẹ cha ở tuổi cuối đời.
Ai cũng cần phải có một bà mẹ, đó là một chân ly bất biến. Mẹ là tất cả, đường ta đi, đất trời ta nhìn thấy, sông biển ta vượt qua… đều là do mẹ tạo ra. Không có gì lớn hơn mẹ nữa đâu! Vâng, hãy nói đi, hãy nói yêu mẹ khi còn chưa muộn! Hãy kết lấy một bó hoa rực rở nhất để kính dâng lên mẹ. Mỗi ngày, hãy ngồi xuống trong những khoảnh khắc lắng động nhất để nhớ đến mẹ, như đoạn văn sau đây của Bùi Vĩnh Phúc: "Viết về mẹ, tôi muốn được nhớ lại một kỷ niệm của thời thơ ấu, có những đóa hoa và có những tình cảm dịu dàng đầm thấm. Mẹ tôi đã để lại trong lòng tôi những tình cảm đẹp đẻ ấy ngay từ những ngày tôi còn nhỏ dại, những tình cảm đó vẫn theo tôi lớn lên, và từ đây trên nẻo đường chong gai mệt mỏi của đời, tôi vẫn còn cảm thấy thiết tha một tình yêu mến, chính tình yêu mến này đã làm dịu mát trái tim tôi… Xin trao tặng tất cả những bà mẹ, mỗi người một đóa hoa hồng và xin tất cả chúng ta, những người con đều có cách lưu giữ những đóa hồng thắm đẹp tươi ấy trong trái tim của chính mình mỗi ngày.”
GIANG PHONG