Tổ Đình Thiên Thai Thiền Giáo Tông
Nghiên cứu | (21:15 ngày 06/08/2022) | Xem ( 155)

Kinh Vu lan - Khảo về nguồn gốc Hán tạng & Nikàya

Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm. Với chiều dài lịch sử đó, đã khẳng định những cống hiến riêng có của lễ hội này, trong tiến trình phát triển văn hóa của nhân loại nói chung và của Phật giáo nói riêng.


Tuy nhiên, không phải mọi sự kiện có bề dày lịch sử đều gần với chân lý của số đông, cho dù đó là một sự kiện lễ hội đậm chất nhân văn như lễVu lan. Do vậy, nên đôi khi trong một số diễn đàn Phật học đã xuất hiện những hoài nghi về xuất xứ, cũng như băn khoăn về tính chân thực của kinhVu lan.

Xuất phát từ những hoài nghi và trăn trở đó, đã thôi thúc chúng tôi thực hiện việc khảo chứng về nguồn gốc cũng như quá trình hình thành kinhVu lan, qua các nguồn kinh điển Hán tạng và tư liệu Nikāya. Đó chính là mục tiêu chủ yếu của bài khảo luận này.

Khái lược về các truyền bản kinhVu lan

Trong kho tàng kinh điển tiếng Việt, kinhVu lanhiện được nhiều người phiên dịch. Trong số những dịch phẩm tiếng Việt đầu tiên có thể kể đến là kinhVu lan bồn diễn nghĩa, in vào năm 1962, không rõ dịch giả. KinhVu lan bồn, do Hòa thượng Trí Quang dịch, Nhà in Sen Vàng ấn hành tại Sài Gòn vào năm 1971, ngoài ra còn có nhiều dịch giả cùng tham gia phiên dịch bản kinh này. Về cơ bản, các bản dịch tiếng Việt đều dựa trên bản kinh mang tênPhật thuyết Vu lan bồn kinhdo ngài Trúc Pháp Hộ (226-303)phiên dịch từ Phạn sang Hán.

Theo thống kê của ngài Tăng Hựu trongXuất Tam tạng ký tập, quyển 2, trong danh mục 154 bộ kinh do ngài Trúc Pháp Hộ phiên dịch thì không có kinhVu lan. Không những vậy, ngài Tăng Hựu cũng phát hiện một bản kinh mang tênVu lannhưng không rõ dịch giả, nên đã đưa vào mụcTân tập tục soạn thất dịch tạp kinh.Xuất Tam tạng ký tậplà một trong những bộ kinh lục đầu tiên hiện còn, được học giới đánh giá cao về phương diện tư liệu. Xét về khoảng cách niên đại giữa ngài Trúc Pháp Hộ và thời điểm biên soạn tác phẩmXuất Tam tạng ký tậpcũng khá gần nhau. Do vậy, sự ghi nhận của ngài Tăng Hựu cũng là một trong những lưu ý quan trọng về nguồn gốc bản kinhVu lan.

Có thể nói, người đầu tiên ghi nhận kinhVu lando ngài Đàm Ma La Sát (Trúc Pháp Hộ) phiên dịch, chính là học giả phiên kinh Phí Trường Phòng. TheoLịch đại Tam bảo ký, quyển 6, trong 210 bộ kinh do Trúc Pháp Hộ phiên dịch, có bản kinhVu lan(盂蘭經). Phí Trường Phòng là tác giả bộ kinh lụcLịch đại Tam bảo ký, thống kê danh mục kinh điển, kể từ khi Phật giáo có mặt tại Trung Hoa cho đến những năm cuối của niên hiệu Khai Hoàng ở thời nhà Tùy. Tác phẩm này, ngoài phương diện đóng góp tích cực trong việc thống kê, sắp xếp lại kinh điển sau đại pháp nạn của Chu Vũ Đế, thì còn có những hạn chế nhất định. Theo ngài Trí Thăng trongKhai nguyên thích giáo lục, quyển thứ mười, đã chỉ ra mười điều sai lầm của Phí Trường Phòng được thể hiện trong tác phẩmLịch đại Tam bảo ký. Do vậy, có những tư liệu do Phí Trường Phòng ghi nhận, để đảm bảo tính khách quan thì cần nên phối kiểm từ các nguồn tư liệu khả tín khác.

Trong tác phẩmKinh luật dị tướng, một tuyển tập kinh điển được tập thành dưới thời Lương Vũ Đế (tại vị từ 502-549), có một bản kinhVu lan.Khảo sát cho thấy, bản này tương tự như bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ, nhưng cô đọng hơn. TheoKhai nguyên thích giáo lục, quyển 2,Vu lan kinhcũng là tên gọi khác củaVu lan bồn kinh,trong 175 dịch phẩm của ngài Trúc Pháp Hộ, có bản kinh này.

Trong tác phẩmPhật thuyết Vu lan bồn kinh sớ,ngài Tông Mật (780-841) cho rằng, kinhVu lancó các bản dịch với những tên gọi khác nhau như, ở thời Tấn Vũ Đế, có Pháp sư Đàm Ma La Sát (Trúc Pháp Hộ-nv) dịchVu lan bồn kinh, thời Huệ Đế, hai ngài Pháp Cự và Pháp Lập dịchQuán lạp kinh, thứ ba làBáo ân(phụng bồn-nv)kinhkhông rõ dịch giả. Tác phẩm kinh lụcĐại Đường nội điển lục, quyển 9 cũng cho rằng,Vu lan bồn kinh, Quán lạp kinh, Báo ân phụng bồn kinh, Tịnh độ Vu lan bồn kinhđều giống nhau.

Trong bộ tự điển Phạn-Hán đầu tiên, tác phẩmNhất thiết kinh âm nghĩa, do ngài Huyền Ứng và Tuệ Lâm biên soạn, cũng đề cập đến kinhVu lan bồnthông qua việc giải thích những thuật ngữ có nguồn gốc từ Phạn ngữ nhưUông dương(汪洋),Bát la hòa phạn(鉢羅和飯)…được sử dụng trong bản kinh này. Bên cạnh đó, cũng có nhiều thuật ngữ Phạn-Hán từ bản kinhBát Nê-hoàn hậu quán lạpnhưThế hứa(貰許),Đạt sấn(達嚫),Khảo trị(栲治) được ghi lại trongNhất thiết kinh âm nghĩa,quyển 44.

Từ những thông tin trên đã chứng minh rằng, đã có một Phạn bản kinhVu lanđược lưu hành trong thời ngài Trúc Pháp Hộ, được nhiều dịch giả phiên dịch với những tên gọi khác nhau. Điều đáng chú ý, trong những dịch phẩm của ngài Trúc Pháp Hộ, có một bản kinh mang tênBát Nê-hoàn hậu quán lạp. Theo,Khai nguyên thích giáo lục, quyển 12, thìBát Nê-hoàn hậu quán lạpchính làQuán lạp kinh. Và như đã phân tích,Quán lạp kinhchính là tên gọi khác của kinhVu lan.

Như vậy, sự kiện Phí Trường Phòng ghi nhận rằng, Trúc Pháp Hộ dịch kinhVu lanlà thông tin xác thực, được phối kiểm từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau.

Mối liên hệ và sự tiếp biến giữa kinhVu lanMục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn

Ba bản kinhVu lanhiện còn trongĐại tạng kinh Đại chính tân tunhưBát Nê-hoàn hậu quán lạp, Phật thuyết Vu lan bồn kinh, Phật thuyết báo ân phụng bồn kinhđều không đề cập đến nhân thân của Tôn giả Mục Kiền Liên cũng như nguyên nhân vì sao mà mẹ của Tôn giả bị đọa địa ngục. Chính vì vậy, làm cho người đọc khó hình dung ra bối cảnh của vấn đề. Thế nên, đã có một tác phẩm đời sau mang tênMục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn,nhằm bổ sung những chi tiết quan trọng và cần thiết đó. Trong tác phẩm này, nội dung liên hệ đến đề tài nằm ở phần đầu, gọi tắt làBiến văn.

Xét về niên đại, kinhVu lando ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào khoảng cuối thế kỷ thứ III đầu thế kỷ thứ IV. Trong khi đó niên đại của những tác phẩmBiến vănĐôn Hoàng nói chung vàMục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến vănnói riêng, được xác định vào khoảng từ thế kỷ thứ V đến cuối thế kỷ thứ X.

TheoBiến văn, Mục Kiền Liên khi còn ở tại gia tên là La Bốc (羅卜), rất thâm tín Tam bảo và kính trọng Đại thừa. Mẹ ngài tên là Thanh Đề. Nhân một lần chuẩn bị giao thương buôn bán xa, nên La Bốc đã dành một phần tiền bạc để lại, dặn mẹ rằng:

- Khi nào có Đức Phật và chư Tăng đến, thì mẹ hãy thay con thiết trai cúng dường.

Sau khi La Bốc đi xa, người mẹ đã khởi tâm xan lẫn, cất giấu tiền bạc mà không tổ chức thiết trai. Người con lo việc xong liền trở về nhà, nghe mẹ bảo rằng, ta đã làm phước theo lời con dặn. Nhân vì lừa dối phàm thánh, nên sau khi mệnh chung, bà liền thọ khổ báo trong địa ngục A-tỳ. Lo việc hiếu sự châu viên, La Bốc liền đầu Phật xuất gia. Do siêng năng, nghe kinh tu tập, cộng với nương nhờ túc duyên nên đã chứng quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, Tôn giả Mục Liên đã dùng đạo nhãn quán sát sáu nẻo luân hồi nhưng không thấy mẹ đâu. Mục Liên liền bi ai bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, mẹ con hiện ở phương nào và thân tâm có yên ổn không?

Lúc đó, Thế Tôn đáp rằng:

- Mẹ ông hiện đọa địa ngục A-tỳ, thọ vô lượng khổ. Ông tuy chứng Thánh quả, nhưng một mình thì không thể cứu mẹ được đâu. Phải nương vào ngày giải hạ của mười phương Tăng chúng, nhờ sức mạnh chú nguyện của chúng Tăng, mới có thể cứu độ mẹ ông.

Nhân đó, Đức Phật đã từ bi phương tiện khai mở lễ hội này hàng năm. Lễ Vu lan bồn khởi nguồn từ đây vậy.

Câu chuyện được tiếp tục với sự kết hợp giữa hai thể loại văn xuôi và văn vần xen kẽ, mang phong cách ngữ nghĩa đặc thù của dòng văn họcBiến văn. Trên đây chỉ là sơ lược phần khởi đầu củaBiến văn. Do vì yêu cầu của chuyên khảo, nên chúng tôi chỉ khảo sát những nội dung chính liên quan đến đề tài.

Có thể nói, tác phẩmBiến vănmặc dù chưa tìm ra tác giả, nhưng quả là một tác phẩm văn hiến đặc thù của Phật giáo Trung Quốc trong thời đại nhà Đường. Khảo sát bước đầu về tên gọi cũng như các sự kiện chính trong tác phẩm, đã chứng tỏ tác giảBiến vănkhông những am tường Nho-Lão, có khả năng thi phú, văn chương, mà còn là một tác gia có thẩm quyền về Phật học. Chính vì vậy, tác phẩm này không những được các nhà nghiên cứu và chú giải kinhVu lantiếp thu, mà còn được giới nghiên cứu văn hóa, văn học quan tâm phổ biến.

Trước hết, về tên gọi La Bốc (羅卜) của ngài Mục Kiền Liên. Theo luậnĐại trí độ, quyển 11 ghi rằng:Con của một chuyên gia chiêm tinh(占師子), tên là Câu Luật Đà, họ là Đại Mục Kiền Liên. ChữBốc(卜) được dùng ở trong tác phẩmBiến vănđồng nghĩa với chữChiêm(占) trong luậnĐại trí độ. Về chữ La (羅), tác phẩmNhất thiết kinh âm nghĩa, quyển 47 ghi rằng, Một Lực Già La Tử (沒力伽羅子) cựu dịch Mục Kiền Liên là sai vậy. Ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư trong tác phẩmDiệu pháp liên hoa kinh văn cú, đã dẫn lời ngài Chân Đế cho rằng,Đại Mục Kiền Kiên còn được gọi là Vật Già La(勿伽羅). Như vậy, La Bốc là người thuộc dòng dõi chiêm tinh bói toán, tên là La.

Tên gọi La Bốc, Thanh Đề và các chi tiết sinh động từBiến văncòn xuất hiện trong tác phẩmPhật thuyết Vu lan bồn kinh sớ, do ngài Tông Mật (780-841) soạn, gọi tắt là bảnKinh sớ. Căn cứ vào cấu trúc nội tại, tầm mức ảnh hưởng cũng như tính phổ biến củaBiến văn,chúng tôi nghiêng về quan điểm cho rằng tác phẩmBiến văncó trước tác phẩmKinh sớ.Nói cách khác, ngài Tông Mật chú giải kinhVu lancăn cứ trên nguyên bản kinhVu lando ngài Trúc Pháp Hộ phiên dịch, và dựa vào những cứ liệu được mô tả chi tiết trong tác phẩmBiến văn,liên quan đến quãng đời trước khi xuất gia của Tôn giả Mục Kiền Liên.

Như vậy, tác phẩmBiến vănđã đóng một vai trò quan trọng trong việc lý giải nguyên nhân vì sao mà mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên bị đọa địa ngục. Sự lý giải này dựa trên cơ sở nào, hay chỉ là sáng tác văn học thuần túy do người sau hư cấu viết ra? Theo chúng tôi, tác phẩmBiến vănđược hình thành dựa trên một nền tảng kinh điển có từ rất sớm. Đó là kinhSoạn tập bách duyên, quyển thứ 5 do cư sĩ Chi Khiêm dịch. Nội dung câu chuyện nằm trong mụcƯu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên,gọi tắt là kinhƯu Đa La mẫu.

Mối liên hệ và sự tiếp biến giữa Mục KiềnLiên minh gian cứu mẫu biến vănvà kinhƯu Đa La mẫu

Trước hết, để dễ dàng hình dung, chúng tôi xin giới thiệu tóm lược một phần nội dung kinhƯu Đa La mẫu:

Một thuở nọ, Đức Phật ở trong vườn trúc Ca-lan-đà thuộc thành Vương-xá. Lúc ấy, trong nước đó có một vị trưởng giả giàu có, sinh được một bé trai, tướng mạo khôi ngô, trên đời ít có nên đặt tên là Ưu Đa La.

Khi Ưu Đa La lớn khôn thì trưởng giả qua đời. Đối với Phật pháp, Ưu Đa La phát tâm kính tín và mong mỏi xuất gia, nên đã khẩn khoản xin mẹ. Người mẹ đáp:

- Cha con đã chết, ngoài con ra ta không còn ai, vậy sao con nỡ bỏ ta mà xuất gia? Thôi từ đây, nếu như con muốn thỉnh các Sa-môn, Bà-la-môn, thì mẹ sẽ sắm sửa các món ngon để con tùy ý cúng dường.

Nghe mẹ nói, Ưu Đa La an lòng. Sau đó chàng thường thỉnh các Sa-môn, Bà-la-môn về nhà để cúng dường.

Mẹ của Ưu Đa La thấy các đạo sĩ thường xuyên lui tới nên bà sinh tâm chán ghét, chửi mắng các Sa-môn, Bà-la-môn.

Có lần Ưu Đa La đi vắng, người mẹ bèn đổ thức ăn và nước uống xuống hố bỏ. Khi con về, mẹ liền nói:

- Con đi rồi, mẹ ở nhà sắm sửa thức ăn ngon cúng dường cho các Sa-môn, Bà-la-môn rồi.

Ưu Đa La nghe mẹ nói, rất vui mừng. Về sau người mẹ qua đời và bị đọa vào loài ngạ quỷ miệng khô nóng, đói khát khổ sở, đi đến chỗ vị Tỳ-kheo nói rằng:

- Ta là mẹ của con đây.

Tỳ kheo lấy làm lạ hỏi:

- Lúc còn sống, mẹ tôi thường bố thí, vì sao ngày nay lại bị đọa vào loài ngạ quỷ?

Ngạ quỷ đáp:

- Vì mẹ tham lam, bỏn sẻn, không chịu cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn, vì thế mà phải chịu làm thân ngạ quỷ. Trong suốt hai mươi năm, mẹ không được ăn uống gì cả.

Tỳ-kheo hỏi ngạ quỷ:

- Do đâu mà đến nỗi như vậy?

Ngạ quỷ đáp:

- Tuy ta bố thí nhưng tâm thường bỏn sẻn. Đối với các Sa-môn, Bà-la-môn không có tâm cung kính, lại còn nhục mạ, nên ngày nay phải chịu quả báo này. Nếu thầy thỉnh Đức Phật và chúng Tăng cúng dường và sám hối, hồi hướng công đức cho ta, thì chắc chắn ta sẽ thoát khỏi thân ngạ quỷ.

Tỳ-kheo nghe mẹ nói nên đã khuyến cầu các thí chủ sắm sửa thức ăn và các thứ cần dùng, cúng dường Đức Phật và chư Tăng. Sau khi cúng dường xong, ngạ quỷ hiện thân trước đại chúng sám hối và sau khi trải qua vài lần sanh tử thì được sanh lên tầng trời Đao Lợi

…Lúc ấy các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều vui mừng thực hành.

KinhƯu Đa La mẫudo cư sĩ Chi Khiêm dịch tại Đông Ngô trong khoảng những năm 222-253. Bản kinh này cũng xuất hiện trong tác phẩmKinh luật dị tướng, được tập thành vào thời nhà Lương. Điều đó đã cho thấy sự nổi bật cũng như tính phổ biến của kinhƯu Đa La mẫuvào thời kỳ này. Xét về phương diện nội dung, cảBiến vănvà kinhƯu Đa La mẫuđều có ít nhất mười hai điểm tương đồng.

Thứ nhất, tuyến nhân vật chủ yếu bao gồm người cha, mẹ, đứa con trai, vị Tỳ-kheo, chúng Tăng và Đức Phật.

Thứ hai, người con thâm tín Tam bảo nhưng người mẹ thì ngược lại.

Thứ ba, con nhờ mẹ cúng dường, nhưng mẹ lại lừa dối và khinh khi Tam bảo.

Thứ tư, sau khi chết, người mẹ đọa làm thân quỷ.

Thứ năm, người con xuất gia, mong muốn tìm mẹ.

Thứ sáu, người con gặp lại mẹ trong thân quỷ đói.

Thứ bảy, đã rất lâu quỷ mẹ không thể uống hay ăn.

Thứ tám, một mình con không thể cứu mẹ.

Thứ chín, người con thay mẹ cúng dường Đức Phật và chư Tăng.

Thứ mười, được chư Tăng chú nguyện.

Thứ mười một, quỷ mẹ được sanh lên Thiên giới.

Thứ mười hai, Đức Phật tán thán, đệ tử Phật hoan hỷ thực hành.

Mặc dù giữaBiến vănvà kinhƯu Đa La mẫugiống nhau gần như hoàn toàn, tuy nhiên vẫn có một điểm khác biệt quan trọng. Đó là tác phẩmBiến vănđã mạnh dạn thay đổi tên nhân vật chính, tức là thay đổi tên Tỳ-kheo Ưu Đa La thành Tôn giả Mục Kiền Liên. Sự thay đổi này ở tác phẩmBiến văntheo chúng tôi, được xuất phát từ những lý do sau.

Trước hết, tác phẩmBiến vănlà sự phát triển tiếp tục về phương diện văn chương của bản kinhVu lan. Do vậy, nhân vật chính phải là ngài Mục Kiền Liên.

Thứ hai, xét về ảnh hưởng danh xưng, nếu là câu chuyện của ngài Mục Kiền Liên thì tầm ảnh hưởng sẽ sâu rộng, vì Tôn giả là một trong những đệ tử lớn của Phật.

Thứ ba, ngài Mục Kiền Liên được biết đến là người có duyên tiếp xúc với nhiều loài ngạ quỷ. Tư liệu Hán tạng và Nikaya đều khẳng định việc này.

Thứ tư, ngài Mục Kiền Liên đã tự mình vào địa ngục cứu độ chúng sanh, đã chỉ bày cho chúng sanh cách thức cứu độ người thân đang ở trong loài ngạ quỷ.

Thứ năm, ngài Mục Kiền Liên đã từng nương nhờ thần lực của Đức Phật để đi thăm mẹ ở thế giới Ma-lợi-chi, được ghi lại trongCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ-nại-da dược sự.

Từ năm điểm này đã cho thấy, tác phẩmBiến vănđã tiếp biến có chọn lọc, tuy tự do sáng tạo nhưng vẫn dựa trên những nguồn kinh điển khả tín. Nói rõ hơn, tác phẩmBiến vănlà sự tổng hợp mang tính sáng tạo đỉnh cao giữa nhiều bản kinh, mà trong đó chủ yếu là kinhVu lanvà kinhƯu Đa La mẫu.

Bản kinhƯu Đa La mẫunày có mặt trong những bộ kinh lục nổi tiếng nhưXuất Tam tạng ký tập, quyển 2,Lịch đại Tam bảo ký, quyển 5,Khai nguyên thích giáo lục, quyển 2…điều đó đã cho thấy bản kinh đã được ghi nhận từ rất sớm.

Điều đặc biệt kỳ thú, vì qua sự đối khảo chuyên sâu, chúng tôi đã phát hiện nội dung bản kinhƯu Đa La mẫu hiện diện trong tư liệu Nikāya nằm ở tậpNgạ quỷ sự.

So sánh giữa kinhƯu Đa La mẫuNgạ quỷ sựtrong Kinh tạng Nikāya

TheoĐại từ điển Phật họccủa Đinh Phúc Bảo, Ưu Đa La được dịch từ chữ Uttara. Thêm một lần tham khảoDictionary of Pāli Proper Names, chúng tôi dễ dàng tìm ra những liên hệ tương đồng trong Kinh tạng Nikāya. Từ cơ sở ban đầu này, đã mở ra một phát hiện mới trong chuyên khảo của chúng tôi.

Như đã trình bày, tác phẩmƯu Đa La mẫulà tên gọi tắt củaƯu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyêndo cư sĩ Chi Khiêm dịch.Chúng tôi đã phát hiện nguyên tác Pāli tương đương mang tênUttaramātu Petavatthu39, được dịch sát với nguyên bản là:Uất Đa La mẫu quỷ sự40.

Trong Kinh tạng Pāli, liên quan đến chuyện ngạ quỷ có hai tác phẩm. Đó làNgạ quỷ sựnằm trong tập kinhTiểu bộvà tác phẩmChú giải ngạ quỷ sựcủa ngài Dhammapāla. Cả hai tác phẩm này đều chuyên chở nhiều tình tiết sinh động về câu chuyện liên quan đến nhân vật Uttara. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin giới thiệu toàn vănChuyện mẹ củaUttarado cư sĩ Trần Phương Lan dịch, hiện nằm trong kinhTiểu bộ, tập 2.

Chuyện mẹ củaUttara(Uttaramātu)

Sau khi bậc Ðạo Sư diệt độ, vào thời đại hội kết tập kinh điển đầu tiên đang diễn tiến, Tôn giảMahā-Kaccayāna(Ðại Ca Chiên Diên) cùng mười hai Tỳ-kheo đang cư trú trong ngôi rừng nọ gầnKosambi(Kiều-thưởng-di).

Thời ấyUttara, vị nam tử thừa kế của vị quốc sư triều vuaUdena,đang cùng đám thợ mộc đi tìm gỗ để sửa nhà, và được Trưởng lão này thuyết pháp.

Về sauUttarathường cúng dường vị ấy thực phẩm và xây tặng vị ấy một thảo am.

Song bà mẹ củaUttaracăm hận những việc cúng dường ấy. Bà bảo:

- Ta mong bất cứ thức ăn uống nào con cúng các Sa-môn mà ta không đồng ý đều trở thành máu cho con uống ở đời sau.

Tuy thế, vào ngày cúng dường am thất, bà cho phép tặng một bó lông đuôi công. Khi từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ và do đã cúng dường một bó lông đuôi công ấy, nữ ngạ quỷ có mái tóc đen thật dài, uốn lượn óng ả rất đẹp và dài tha thướt.

Bất cứ khi nào nữ ngạ quỷ bước xuống tự nhủ: ‘Ta sẽ uống nước sông Hằng’ thì dòng sông trở thành máu đỏ. Sau khi đã đi lang thang suốt năm mươi năm bị đói khát giày vò, ngày kia nữ ngạ quỷ chợt thấy Trưởng lãoKankhā Revata (KankhāLy-bà-la) ngồi nghỉ trưa bên bờ sông Hằng:

Cuộc đối thoại này tiếp theo sau hai vần kệ đầu của chư vị kết tập kinh điển:

1- Khi một Tỳ-kheo đếnnghỉ trưa

Và ngồi trên bến nước Hằng hà,

Gần người, nữ quỷ hình ghê rợn,

Dáng điệu rụt rè, tiến bước ra.

2- Mái tóc quỷ nương ấy thật dài

Thả ra chấm đất, được buông lơi,

Che thân bằng các chùm tóc ấy,

Nữ quỷ thưa Tôn giả chuyện đời:

Nữ ngạ quỷ:

3- Năm mươi năm đã giã từ trần,

Con chẳng biết gì thức uống ăn.

Tôn giả, cho con xin chút nước,

Hiện con đang khát nướcmuôn phần.

Tỳ-kheo:

4- Ðây dòng nước mátcủa sông Hằng

Chảy xuống từ miền núiTuyết Sơn,

Hãy lấy nước kia và uống gấp,

Sao ngươi xin nước ở trên dòng?

Nữ ngạ quỷ:

5- Tôn giả, xin thưa, nếu chính con

Tự tay lấy nước ở dòng sông,

Nước liền thành máu, và vì thế

Con khẩn cầu ngàichút nước trong.

Tỳ-kheo:

6- Ngày xưa đã phạm áchành nào

Do khẩu, ý, thân đã phạm vào,

Từ nghiệp quả gì tay ấy chạm

Nước sông Hằng hóa máu, vì sao?

Nữ ngạ quỷ:

7- Nam tử của con, Ut-ta-ra,

Xưa vốn là cư sĩ tại gia

Ðem cúng các Sa-môn thực phẩm,

Tọa sàng, dược liệu, áo cà-sa.

8- Lòng con sôi động bởi xan tham

Thúc giục, nên con phỉ báng chàng:

‘Bất cứ vật gì ta chẳng muốn

Ngươi đem dâng cúngcác Sa-môn,

9- ‘Ut-ta-ra, thứ ấy, ta cầu

Thành máu cho ngươi ở kiếp sau’.

Do nghiệp quả này, tay chạm phải

Nước sông Hằng hóa máu từ lâu’.

Khi ấy Tôn giảRevatacúng dường nước lên Tăng chúng và hồi hướng công đức cho nữ ngạ quỷ. Sau đó Tôn giả đi khất thực và khi đã nhận được thức ăn Tôn giả cúng dường chư Tăng. Rồi Tôn giả lấy một ít giẻ rách từ đống rác, rửa sạch, phơi khô xong, Tôn giả may thành y và cúng dường Tăng chúng.

Nhờ vậy nữ ngạ quỷ thọ hưởng thiên lạc, liền trình với vị Trưởng lão sự việc cùng bày tỏ niềm hạnh phúc thần tiên mà nó đã đạt được.

Từ nội dung trên đã cho thấy rằng phần lớn nội dung của tác phẩmUất Đa La mẫu quỷ sựtương đồng với nội dungƯu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên. Chỉ xét riêng về 12 điểm tương đồng giữaBiến vănvà kinhƯu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyêntrong hệ Hán tạng; thìUất Đa La Mẫu quỷ sựthuộc văn hệ Pāli chỉ khác biệt một vài điểm nhỏ.

Sự khác biệt mục thứ 3. Nếu nhưBiến vănƯu Đa La mẫu, thanh niên Ưu Đa La nhờ mẹ cúng dường, thì trongUất Đa Lakhông có chi tiết này, nhưng vẫn bảo lưu chi tiết người mẹ khinh khi Tam bảo.

Sự khác biệt mục thứ 5. Nếu nhưBiến vănƯu Đa La mẫu, Tỳ-kheo Ưu Đa La đi tìm mẹ sau khi chứng đạo; thì trongUất Đa Lakhông có chi tiết này, mà thông tin ngược lại, tức mẹ đi tìm con.

Sự khác biệt mục thứ 6. Nếu nhưBiến vănƯu Đa La mẫu, Tỳ-kheo Ưu Đa La gặp mẹ ruột của mình; thì trongUất Đa La, người mẹ gặp Tôn giả Revata.

Sự khác biệt mục thứ 9. Nếu nhưBiến vănƯu Đa La mẫu, Tỳ-kheo Ưu Đa La thay mẹ cúng dường; thì trongUất Đa LaTôn giả Revata thay ngạ quỷ cúng dường đến chư Tăng.

Sự khác biệt mục thứ 12. Thay vì Đức Phật tán tán thì trongUất Đa LaTrưởng lão Revata đã tán thán thiện sự này và khuyên mọi người theo đó thi hành.

Năm điểm khác biệt nêu trên sở dĩ xuất hiện có thể do ảnh hưởng của bối cảnh văn hóa, hoặc do các nhà phiên dịch chủ động bổ sung, hoặc thậm chí là do vô ý nên dẫn đến sai sót trong quá trình lưu giữ, biên tập. Theo chúng tôi, những khác biệt này không làm thay đổi nội dung chủ yếu mà tác phẩm muốn đề cập đến.

Ở đây, có một điểm cần lưu ý. Vì trong nguyên tác Pāli của Pāli Text Society thì câu chuyệnUttaramātu Petavatthu(Uất Đa La Mẫu quỷ sự),nằm trong bộVimānavatthuPetavatthu,chỉ gồm có chín câu kệ rất cô đọng.Thế nhưng trong bản dịch của cư sĩ Trần Phương Lan thì có phần dẫn nhập và kết thúc, nên nội dung câu chuyện dễ hiểu và khúc chiết hơn. Sau khi phối kiểm, chúng tôi nhận thấy, bản dịch của cư sĩ Trần Phương Lan là sự kết hợp giữa chín câu kệ trong nguyên tácNgạ quỷ sựvà bảnChú giải Ngạ quỷ sựcủa Tôn giả Dhammapāla.

Xét về phương diện niên đại, Tôn giả Dhammapāla sống vào khoảng thế kỷ thứ V TL, ngài thực hiện bản chú giảiNgạ quỷ sựlúc ngụ tại tu viện Badaratitthavihāra. Trong khi đó, bản chú giảiUất Đa La Mẫu quỷ sựcủa ngài phần lớn tương đồng với tác phẩmƯu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyêndo cư sĩ Chi Khiêm dịch vào giữa thế kỷ thứ III. Điều đó cho thấy, bản chú giảiUất Đa La Mẫu quỷ sựcủa Tôn giả Dhammapāla đã kế thừa từ một nguồn tư liệu tương tự như nguồn tư liệu của cư sĩ Chi Khiêm.

Từ những phân tích và đối khảo ở trên đã cho thấy, sự tương đồng về nội dung giữa các tác phẩmUất Đa La mẫu quỷ sự, Chuyện mẹ củaUttaraMục Kiền Liên minh gian cứu mẫu biến văn, Ưu Đa La mẫu đọa ngạ quỷ duyên,đã dẫn đến một sự khẳng định, trong Kinh tạng Nikāya hiện tồn tại một tác phẩm mang nội dung tương tự như kinhVu lan; đó là tác phẩmChuyện mẹ củaUttarado cư sĩ Trần Phương Lan biên dịch.

Nhận định

Kể từ khi Đức Phật cho phép đệ tử của Ngài được nghiên cứu kinh điển theo ngôn ngữ địa phương của mình, thì số lượng dịch phẩm kinh điển đa ngôn ngữ đã phát triển rất phong phú. Trong quá trình lưu giữ và phiên dịch kinh văn, đã tác động nhiều đến sự thay đổi về cấu trúc, kể cả những tên tuổi hoặc ẩn dụ được sử dụng trong kinh tạng. KinhVu lanlà một trường hợp như vậy. Tuy nhiên, sự giống nhau về nội dung cơ bản giữa hai nguồn tư liệu Hán tạng và Nikāya qua đối khảo ở trên, đã đồng thời khẳng định tính chân thực và nhất quán của Phật pháp nói chung và kinhVu lannói riêng.

Khảo sát cũng chỉ ra rằng, nhân danh một ai đó làm phước thì vẫn đem lại những kết quả thù thắng cho họ, dù đó chưa phải là người thân của mình. Tính chất vô duyên từ của Phật giáo được khẳng định ở điểm này. Về phương diện nghi lễ, phẩm vật có thể đơn sơ như nước uống, cơm canh và vải vụn, nhưng Tôn giả Revata vẫn khiến cho Uttaramātu thoát khỏi khổ quả, mà tư liệu Nikāya đã chỉ ra. Thế nên, việc nhân danh cha mẹ, hoặc những người thân đã khuất, vì họ mà làm nhiều thiện sự, bao gồm cả việc cúng dường Tam bảo, là việc làm đúng pháp. Không những vậy, các nguồn tư liệu cũng ghi nhận rằng, sự phát tâm của đối tượng, được kết hợp đồng thời với năng lực chú nguyện của chư Tăng, sẽ tạo nên những năng lượng chuyển hóa tích cực.

Một bản kinh khá ngắn và có mặt trong cả hai truyền thống, nhưng với Phật giáo Bắc truyền thì được biến thành một sự kiện lễ hội quần chúng, đem đến sự chuyển hóa thánh thiện trong tâm thức của nhiều người, và nhẹ nhàng lan tỏa ảnh hưởng của Phật giáo đến với số đông chưa phải là Phật tử; điều đó cho thấy tính năng động sáng tạo của các nhà hoằng pháp, kể cả vai trò hộ pháp của các vị quân vương Phật tử tại Trung Hoa trong thời kỳ đầu. Do vậyLễ hội Vu lantheo Bắc truyền hayLễ hội Uttara,theo Kinh tạng Nikāya, là một sáng tạo văn hóa thấm đẩm trí tuệ, cần được ghi nhận, bảo tồn và tán thán.

THÍCH CHÚC PHÚ


Chủ trương | Biên tập & Trị sự | Gửi bài cộng tác | Ủng hộ trang Web | Liên hệ