Hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm
Căn cứ Diệu Pháp Liên Hoa kinh, phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn tường thuật, thì người nào niệm danh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm, người ấy lửa lớn không đốt được, nước lớn không cuốn trôi được, dạ xoa, la sát không hại được; những ai sợ hãi thì Bồ tát ban tặng cho sự không sợ hãi; những ai bị trói buộc bởi tham, sân, si thì Bồ tát làm cho hết tham, sân, si; những ai muốn có con trai hay con gái thì Bồ tát cho họ được như nguyện.

Bồ tát Quán Thế Âm dùng vô số phương tiện để nhiếp hóa chúng sanh, tùy nghi mà thị hiện, hoặc hiện bằng thân Phật, thân Phật Bích-chi, thân Thanh văn, thân Phạm Thiên… cho đến thân khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, thần Chấp Kim Cang… hễ với thân hình nào mà độ được chúng sanh thì Ngài đều biến hiện ra thân đó để mà hóa độ.
Trong Bi Hoa kinh, quyển 3, tường thuật sự kiện Bồ tát Quán Thế Âm tự phát nguyện với Đức Phật: "Nguyện khi con hành Bồ tát đạo, nếu có chúng sanh nào bị các khổ não, sợ hãi… có nguy cơ thối thất Chánh pháp, đọa vào đường dữ, ưu sầu, một mình côi cút, không người cứu hộ, không áo, không nhà, bần cùng cơ cực… nếu chúng sanh ấy có thể nhớ nghĩ đến con, niệm danh hiệu của con, vì chúng sanh ấy biết thiên nhĩ của con có thể nghe thấy, thiên nhãn của con có thể nhìn thấy, thì nếu chúng sanh ấy không thoát khỏi những khổ đau, ách nạn, con thề trọn không thành tựu quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề”. (Đại chính 3, tr.185c).
Bi Hoa kinh còn cho biết, Quán Thế Âm là vị Bồ tát Nhất sanh bổ xứ, Pháp thân Đại sĩ, đồng thời là vị Bồ tát kế thừa vị trí của Phật A Di Đà. Công hạnh của Ngài cơ hồ đã viên mãn. Đã thành tựu công đức của mười phương chư Phật. Trong kinh có chỗ nói rằng, Quán Thế Âm vốn là Đức Chính Pháp Minh Như Lai ở đời quá khứ. Như vậy, Ngài là Phật mà hiện thân Bồ tát. Ngài hiện thân trong vô lượng thế giới, dùng thân Bồ tát để cứu chúng sanh gặp phải khổ nạn, thể hiện bi nguyện vô cùng rộng lớn của Ngài.
Như vậy, Bồ tát Quán Thế Âm và Phật A Di Đà có một mối quan hệ vô cùng đặc biệt. Ngài không những là một trong ba vị Thánh ở phương Tây (Tây phương Tam thánh), mà có thuyết còn nói, chính Ngài là hóa thân của Phật A Di Đà.
12 Đại nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm:
Trong Diệu Pháp Liên Hoa kinh, phẩm Quán Thế Âm Phổ Môn ghi 12 nguyện lớn của Bồ tát Quán Thế Âm như sau:
Nguyện Thứ Nhất:
Khi thành Bồ tát
Danh hiệu tôi: Tự Tại Quán Âm
Mười hai lời nguyện cao thâm
"Nghe tiếng cứu khổ” Quán Âm thề nguyền.
Nam mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quan Âm Như Lai quảng phát hoằng thệ nguyện. (Được xưng tặng là hiểu biết đầy đủ thông dong hoàn toàn, Ngài đem pháp tu hành mà khuyên độ khắp cùng)
Nguyện Thứ Hai:
Không nài gian khổ
Quyết một lòng cứu độ chúng sanh
Luôn luôn thị hiện biển Đông
Vớt người chìm đắm, khi dông gió nhiều.
Nam mô vô quái ngại, Quan-Âm Như Lai thường cư Đông Hải nguyện. (Ở trong một niệm tâm được tự tại vô ngại, Ngài nguyện thường ở biển Đông để cứu độ chúng sanh).
Nguyện Thứ Ba:
Ta Bà ứng hiện
Chốn U Minh nhiều chuyện khổ đau
Oan oan tương báo hại nhau
Nghe tiếng than thở, mau mau cứu liền.
Nam-mô trú Ta Bà U Minh giới Quan Âm Như Lai tầm thanh cứu khổ Nguyện. (Luôn ở cõi Ta Bà và cõi U Minh, Ngài cứu độ kẻ nào kêu cầu tới Ngài)
Nguyện Thứ Tư:
Hay trừ yêu quái
Bao nhiêu loài ma quỉ gớm ghê
Độ cho chúng hết u mê
Dứt trừ nguy hiểm, không hề nhiễu nhương.
Nam-mô hàng tà ma, trừ yêu quái Quan Âm Như Lai năng trừ nguy hiểm nguyện. (Trừ khử loài tà ma, yêu quái, Ngài có đủ sức cứu người gặp nguy hiểm).
Nguyện Thứ Năm:
Tay cầm dương liễu
Nước cam lồ rưới mát nhân thiên
Chúng sanh điên đảo, đảo điên
An vui mát mẻ, ưu phiền tiêu tan.
Nam-mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quan Âm Như Lai cam lộ sái tâm nguyện. (Ngài nhành dương liễu dịu dàng nhúng vào nước ngọt mát trong cái bình thanh tịnh để rưới tắt lửa lòng của chúng sanh).
Nguyện Thứ Sáu:
Thường hành bình đẳng
Lòng từ bi thương xót chúng sanh
Hỷ xả tất cả lỗi lầm
Thường hành bình đẳng, chúng sanh mọi loài.
Nam mô Đại từ bi năng hỉ xả, Quan Âm Như-Lai thường hành bình đẳng nguyện. (Thương xót người đói và sẵng lòng tha thứ, Ngài không phân biệt kẻ oán người thân, tất cả đều coi như nhau).
Nguyện Thứ Bảy:
Dứt ba đường dữ
Chốn ngục hình, ngạ quỉ, súc sanh
Cọp beo . . ., thú dữ vây quanh
Quán Âm thị hiện, chúng sanh thoát nàn.
Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. (Đêm ngày đi khắp đó đây để cứu giúp chúng sanh ra khỏi các sự tổn hại, Ngài nguyện cứu vớt chúng sanh ra khỏi ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh)
Nguyện Thứ Tám:
Giải thoát còng la
Nếu tội nhân sắp bị khảo tra
Thành tâm lễ bái thiết tha
Quán Âm phò hộ, thoát ra nhẹ nhàng.
Nam mô vọng Nam nham cầu lễ bái, Quan Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (Nếu ai quay về núi hướng nam mà hết lòng cầu nguyện thì dầu có bị gông cùm xiềng xích cũng được thoát khỏi).
Nguyện Thứ Chín:
Cứu vớt hàm linh
Trên con thuyền Bát Nhã lênh đênh
Bốn bề biển khổ chông chênh
Quán Âm độ hết, đưa lên Niết Bàn.
Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quan Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện. (Dùng phép tu hành để làm chiếc thuyền, Ngài đi cùng trong biển khổ để độ hết chúng sanh).
Nguyện Thứ Mười:
Tây Phương tiếp dẫn
Tràng hoa thơm, kỹ nhạc, lộng tàn
Tràng phan, bảo cái trang hoàng
Quán Âm tiếp dẫn, đưa đàng về Tây.
Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quan Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (Nếu ai cầu nguyện và tu hành theo Ngài chỉ dẫn, khi rời bỏ xác thân này thì sẽ có phướng dài đi trước, tàng lọng quý giá theo sau, để rước về Tây Phương).
Nguyện Thứ Mười Một:
Di Đà thọ ký
Cảnh Tây Phương, tuổi thọ khôn lường
Chúng sanh muốn sống miên trường
Quán Âm nhớ niệm, Tây Phương mau về.
Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như Lai Di Đà thọ ký nguyện. (Ở giới của Đức Vô Lượng Thọ (tức Phật A Di Đà), Ngài đã được cho biết trước là về sau Ngài sẽ thay thế Đức Phật A Di Đà ở ngôi vị đó).
Nguyện Thứ Mười Hai:
Tu hành tin tấn
Dù thân nầy tan nát cũng đành
Thành tâm nghiêm chỉnh thực hành
Mười hai câu nguyện độ sanh đời đời.
Nam mô đoan nghiêm thân vô tỉ trại, Quan Âm Như Lai quả tu thập nhị nguyện. (Được thân hình nghiêm trang không ai so sánh được với Ngài, ấy là kết quả của sự tu theo mười hai lời nguyện lớn ấy).