Tổ Đình Thiên Thai Thiền Giáo Tông
Nghiên cứu | (16:17 ngày 10/08/2024) | Xem ( 170)

CÁCH BÁO HIẾU CỦA NGƯỜI CON PHẬT

Có hiếu là một trong những phẩm chất cao quý của con người.Với người Việt, báo hiếu được xem là một hành động đức hạnh không thể thiếu của một người sống.

Người có biết ơn và có thực hiện hành động báo hiếu cha mẹ được xem là người có nhân tính, rất được gia đình, cộng đồng và xã hội trân quý. Những câu ca dao được đúc kết từ tri thức kinh nghiệm bao đời của người Việt xưa là những minh chứng rất sống động:

Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Công cha đức mẹ cao dày

Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ

Nuôi con khó nhọc đến giờ

Trưởng thành con phải biết thờ song thân.

Cha mẹ là biển là trời,

Hiếu tâm đâu dám cãi lời mẹ cha.

Chí tâm niệm Phật đêm ngày

Cầu cho cha mẹ sống tày non cao.

Tuy nhiên, theo suy nghĩ thông thường, người Việt số đông cho rằng vâng lời cha mẹ khi còn trẻ, lo cho cha mẹ no ấm khi tuổi già là trọn hiếu. Nhiều lúc người ta còn có khuynh hướng xem việc báo hiếu như là một bổn phận, trách nhiệm.


Riêng người con Phật, đã phát nguyện quy y Tam bảo và thực hành Phật Pháp, người ấy thấu hiểu sự hiện hữu của mình trên cuộc đời là một ân phúc, một cơ duyên để xây dựng thiện nghiệp, làm mới tâm thức và đi tới giác ngộ, giải thoát. Và, một trong những nhân duyên lớn và quyết định cho mình hiện hữu và trưởng thành giữa nhân gian là cha và mẹ. Cha mẹ cũng là hai người thầy trong cuộc đời này cho mình học những bài học sống đầu tiên. Người con Phật theo thời gian hiểu ra được công ơn to lớn của cha mẹ, từ khi còn trong bụng cho đến sinh ra và khôn lớn nên người. Ơn giữ thai 9 tháng, ơn sinh sản khổ sở, ơn nuốt đắng cho ngọt, ơn nhường khô nằm ướt, ơn bú mớm nuôi nấng, ơn tắm rửa chăm sóc, ơn xa cách thương nhớ, ơn vì con mà gây tội, làm ác và ơn thương mến trọn đời, có thể nói ngoài cha mẹ,trong đời này không có ai có thể làm thế cho mình. Hơn nữa, cha mẹ là những người duy nhất cho mình biết và thụ hưởng được tình yêu thuần khiết của kiếp sống. Tình yêu tự nhiên và vô điều kiện của cha mẹ thật sự là một quà tặng thiêng liêng nhất thế giới này dành riêng cho những người con. Bởi thế, Đức Phật thường nói:

"Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, Ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai. Là Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm vậy cho đến trăm tuổi, nếu đấm bóp, thoa nước tắm rửa, thoa gội, và dầu tại đấy có vãi tiểu tiện, đại tiện như thế, này các Tỳ Kheo cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỳ Kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng con khôn lớn, giới thiệu con vào đời”.[1]

"Này các Tỳ Kheo, sữa mẹ mà các Thầy thọ nhận nơi người mẹ từ vô lượng kiếp đến nay còn nhiều hơn nước của đại dương. Quý Thầy nên biết sữa của người mẹ là những giọt máu kết tinh thành những dòng sữa ngọt truyền đạt qua cho con, mỗi ngày đứa con bụ bẫm lớn lên đã rút tỉa tàn phá thân hình của người mẹ khô gầy héo mòn, chết sớm cũng vì con”.[2]

Người con Phật không bao giờ xem việc báo hiếu cha mẹ là một bổn phận, ngược lại là một phúc lành. Báo hiếu cha mẹ (bản chất) là một đặc ân. Cha mẹ hiện hữu như Đạo sư hiện hữu; cha mẹ hiện hữu như Phm thiên hiện hữu.[3] Một người Phật tử đích thực, người ấy báo hiếu cha mẹ như là một sự thụ hưởng hạnh phúc. Hạnh phúc mình còn cha mẹ. Hạnh phúc mình được phụng dưỡng, được đền ơn.

Do đó,người con Phật không dừng lại ở việc nuôi dưỡng cha mẹ; gìn giữtruyền thống gia đình; bảo vệ tài sản thừa tự; lo tang lễ khi cha mẹ qua đời... như bao nhiêu người khác, người con Phật còn nhiệt tâm, tinh cần khuyến khích, hướng dẫn, an trú cha mẹ vào thiện giới, vào bố thí và trí tuệ. Có như thế, người con Phật mới cảm thấy báo ơn cha mẹ một cách đầy đủ và chân chính.

Có những trường hợp một người biết sống Đạo và trở thành Phật tử thì cha mẹ đã qua đời. Người ấy thấy có lỗi hoặc chưa trọn vẹn hiếu tâm khi cha mẹ mình còn sống. Cũng có trường hợp vì gia cảnh và sinh kế, người con ly hương hay không có đủ thời gian báo hiếu cho đến khi cha mẹ qua đời. Khi cha mẹ đã qua đời, người con ấy mới nhận ra mình thật sự chưa tròn chữ hiếu.

Trong tâm thức cảm thấy chưa tròn hiếu đạo (như trên), người con Phật không theo cách báo hiếu của số đông là làm ma chay to lớn hay xây mồ m lộng lẫy. Theo lời Phật thì chỉ có một trường hợp là người chết tái sanh ngạ quỷ (trong năm trường hợp tái sinh: trời, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh) mới thụ hưởng được lợi ích của cúng tế (vì ngạ quỷ có tương ưng xứ với con người)[4]. Và, phương thức viên mãn nhất để báo hiếu khi cha mẹ qua đời là hồi hướng công đức[5]. Vì thế, người con Phật không xem việc ma chay tang lễ hay xây dựng mồ m là quan trọng. Ngược lại, người con Phật hết tâm hướng về cha mẹ đã qua đời bằng các việc làm phúc đức để hồi hướng đến cha mẹ. Bố thí, phóng sanh, cứu nạn, xây chùa, in kinh, niệm Phật, tu tâm là những hành động thiết thực người con Phật thường làm vì cha mẹ mình. Tất nhiên, người con Phật cũng không quên tang lễ và cúng giỗ theo truyền thống. Nhưng, tang lễ và cúng giỗ được thực hiện đầy hiểu biết, có từ ái và hiệu quả về cả hai phương diện văn hóa và tâm linh. Đặc biệt, trong tang lễ và cúng giỗ mà người con Phật thực hiện như lời Phật, không bao giờ tồn tại hành vi sát sinh[6].

Một góc nhìn

Đức Phật nói: "Này các Tỳ-kheo, ít hơn là các chúng sanh sau khi chết từ thân người, được tái sanh làm người lại. Và nhiều hơn là các chúng sanh sau khi chết từ thân người, phải tái sanh vào cõi ngạ quỷ” (Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.830). Ngài cho biết thêm: "Do thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, công kích các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì nghiệp phù hợp với tà kiến, các vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi ngạ quỷ (pettivisaya)” (Kinh Trung bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2012, tr.509).

Từ lời dạy của Đức Phật, kết hợp với hiện thực đời sống của tự thân, có thể thấy được làm kiếp người thật không hề đơn giản. Kiếp người là một cơ hội vô cùng quý giá. Tại nơi đây, kiếp người, con người có đầy đủ thiện duyên để tăng thiện, thành tựu trí tuệ giác ngộ, và cũng nơi đây, kiếp người, con người cũng có đủ ác duyên để luân hồi vô tận trong biển khổ ác nghiệp.

Nhìn trong bản chất sâu xa của con người, ai mà không muốn thánh thiện, được tôn trọng, yêu thương; ai mà không muốn vui sướng, tự chủ, cao đẹp đời này và đời sau nữa. Nhưng vì tự thân kẹt vào cô đơn, tiêu thụ, lệ thuộc, sợ hãi, khổ đau và tham hận nên cứ loay hoay mãi trong ngõ cụt dục ái và còn có nguy cơ đánh mất luôn cơ hội vô giá khi được làm người.

Đức Phật sau khi giác ngộ giải thoát, vì lòng bi mẫn, Ngài đã mỗi ngày ăn một bữa, đi bộ và sống giản dị giữa chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người để chia sẻ con đường thoát ly khổ giới, đi tới chánh trí tuệ và chân giải thoát.

Với con người bình thường như một con người, Đức Phật khuyến khích sống theo 5 nguyên tắc lành mạnh (5 giới) là không sát sinh, không trộm cướp, không dối lừa, không xâm hại đức hạnh người khác và không nghiện ngập, để tiếp tục tái sinh làm người, cộng trú với loài người, từ đó có đủ cơ duyên tiếp tục hướng thượng. Ngài cho biết: "Người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người”.

Là một người có trách nhiệm cá nhân và ý thức xã hội, người ấy không thể không tu dưỡng không sát sinh, không trộm cướp, không dối lừa, không xâm hại đức hạnh người khác và không nghiện ngập để làm nhân cho đời sống cá nhân hướng thượng trong tương lai và làm duyên cho xã hội an bình trong hiện tại.

Chúng sanh sau khi chết được thân người rất khó, tái sanh vào ngạ quỷ thì nhiều. Đức Phật khi ở Vesali đã từng chia sẻ với các học trò:

- Ví như, này các Tỷ-kheo, một người quăng một khúc gỗ có một lỗ hổng vào biển lớn. Tại đấy có con rùa mù, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần. Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, con rùa mù ấy sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc gỗ có một lỗ hổng đó hay không?

- Năm khi mười họa may ra có thể được, bạch Thế Tôn, sau một thời gian dài.

- Ta tuyên bố rằng, này các Tỷ-kheo, con rùa mù ấy, sau mỗi trăm năm nổi lên một lần, có thể chui cổ vào khúc gỗ có một lỗ hổng ấy, còn mau hơn một kẻ ngu, khi một lần đã rơi vào đọa xứ để được làm người trở lại. Vì sao? Vì rằng ở đấy không có pháp hành, chánh hành, thiện nghiệp, phước nghiệp. Ở đấy, này các Tỷ-kheo, chỉ có ăn thịt lẫn nhau, và chỉ có kẻ yếu bị ăn thịt[7].

Thế nên, thật phúc lành cho ai khi là một con người. Một khi là một con người, đặc biệt là một người biết quy y Phật và thực hành Phật pháp lại càng khó. Xin hãy sống với nhau thật đẹp và trọn vẹn, nhất là sống với ông bà cha mẹ và những người có ơn với mình trong cuộc đời. Trong trường hợp ông bà cha mẹ đã qua đời, xin đừng nhân danh báo hiếu mà sát sinh, trộm cướp, nói láo, sử dụng chất say và gây nghiện. Điều tốt đẹp mà người có hiếu thật sự nên làm là làm thật nhiều điều phúc lành để hồi hướng. Ông bà cha mẹ hiện đời hay qua đời, với hành động thiện lành và tâm niệm hồi hướng của con cái, tất cả điều thụ hưởng được phúc lạc. Nguyện muôn loài an vui

NGUYÊN HOA


[1]Kinh Tăng Chi

[2]Kinh Tương Ưng

[3]"Phạm Thiên, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với Mẹ Cha; các Đạo sư ngày xưa, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa vói Mẹ Cha, đáng được cúng dường, này các Tỳ kheo, là đồng nghĩa với Mẹ Cha(Kinh Tăng Chi)".

[4] "Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ quỷ. Món ăn của chúng sanh ngạ quỷ như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con, hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy vị ấy sống với món ăn ấy; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy (Kinh Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikàya).

[5]Theo Kinh Mi Tiên vấn đáp, là thông qua việc hồi hướng công đức của Tăng (người xuất gia thanh tịnh). Tăng, với tâm trí thanh tịnh và trái tim từ ái, hướng trí giác ngộ và tâm thanh tịnh đến đối tượng hồi hướng, làm chuyển hoá đối tượng (theo hướng thiện, lạc, từ ái và giải thoát), làm cho kết quả tốt đẹp được tròn đầy cho cả người cúng và đối tượng người cúng tế muốn hướng về. Sự kiện nữ quỷ, mẹ của Uttara, đã thoát khỏi khổ cảnh nhờ Tôn giả Revata thay mặt nữ ngạ quỷ cúng dường nước, vật thực và y phục đến chư Tăngbằng khả năng của mình (nước thì Tôn giả có thể tự lấy, thức ăn thì đi xin, và y phục thì nhặt nhạnh y phấn tảo, giặt sạch và khâu vá lại) và hồi hướng cho nữ quỷ là một minh chứng (Kinh Tiểu bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.99-101). KinhNgoài bức tường (Kinh Tương ưng bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch) cũng kể lại trường hợp của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisara) vì ngạ quỷ quyến thuộc làm các công đức để hồi hướng và cứu độ họ.

[6]Đức Phật khuyến khích cúng tế không sát sinh (Kinh Tăng Chi Bộ, tập 1, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB.Tôn Giáo, 2015, tr.382-383). Trong thời đại của Phật, phẩm vật cúng tế đơn giản, "chỉ với dầu, sanh tô, thục tô, mật và đường miếng”là được (KinhTrường Bộ, HT. Thích Minh Châu, dịch, NXB. Tôn Giáo, 2013, tr.136). Đức Phật nói ai không sát sanh, sau khi thân hoại mạng chung, tái sinh cộng trú với loài người. Ngược lại, "ai sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi ngạ qủy” (Kinh Tăng Chi Bộ, tập 2, HT.Thích Minh Châu dịch, NXB. Tôn Giáo, 2015, tr.719-720).

[7]Kinh lỗ khoá, Tương ưng bộ 5, Chương XII, Tương ưng sự thật, 47.VII, HT. Thích Minh Châu dịch.


Chủ trương | Biên tập & Trị sự | Gửi bài cộng tác | Ủng hộ trang Web | Liên hệ